Additional Info
Thiền Sư Minh Không
(1076 - 1141)
(Đời thứ 13, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Sư tên Nguyễn Chí Thành, sanh ngày 14 tháng 8 năm Bính Thìn (1076) tại làng Loại Trì, huyện Chân Định, tỉnh Nam Định, thường cùng với Giác Hải, Đạo Hạnh làm bạn thân. Năm hai mươi chín tuổi, Sư cùng hai vị ấy sang Thiên Trúc học đạo với thầy Sa-môn, được phép Lục trí thần. Trở về quê, Sư tạo ngôi chùa Diên Phước, ở đó chuyên trì chú Đại bi.
Bấy giờ, Sư muốn tạo Đại Nam tứ khí (tượng Phật, hồng chung, cái đỉnh, cái vạc) không nệ nhà nghèo sức mọn. Một hôm, Sư suy nghĩ: “Nước Tống ắt có nhiều đồng tốt, có thể dùng đúc được.” Nghĩ xong, Sư thẳng đường sang Bắc triều (Trung Quốc). Trước nhất, Sư ghé trọ một nhà trưởng giả xin mảnh đất bằng chiếc ca-sa để lập Kỳ Viên. Trưởng giả cười bảo:
- Xưa kia Thái tử nhà Lương muốn lập Kỳ Viên, khoảng đất rộng đến ngàn dặm, lấy vàng lót đất. Tại sao ông chỉ xin mảnh đất bằng áo ca-sa, chỉ bằng chuồng gà mà làm gì?.
Đêm ấy, Sư trải chiếc ca-sa khắp mười dặm đất. Trưởng giả thấy Sư có phép thần liền dẫn vợ con ra lễ bái, từ đây cả nhà đều qui y Tam Bảo.
Hôm khác, Sư đắp y mang bát chống gậy trước thềm rồng đứng khoanh tay. Vua Tống vào triều, bá quan văn võ tung hô xong, xem thấy vị Sư già bèn triệu vào, hỏi:
- Thầy già ốm này là dân phương nào, tên họ là gì? đến đây có việc chi?
Sư tâu:
- Thần là kẻ Bần tăng ở tiểu quốc, xuất gia đã lâu, nay muốn tạo Đại Nam tứ khí, mà sức không tùy tâm, nên chẳng sợ xa xôi lặn lội đến đây, cúi mong Thánh đế mở rộng lòng thương ban cho chút ít đồng tốt, để đem về đúc tạo.
Vua Tống hỏi:
- Thầy đem theo bao nhiêu đồ đệ?
Sư tâu:
- Bần tăng chỉ có một mình, xin đầy đãy này quảy về.
Vua bảo:
- Phương Nam đường xa diệu vợi, tùy sức Sư lấy được bao nhiêu thì cho bấy nhiêu, đủ quảy thì thôi.
Sư vào kho đồng lấy gần hết sạch mà chưa đầy đãy, quan giữ kho le lưỡi lắc đầu, vào triều tâu việc ấy cho Vua. Vua ngạc nhiên hối hận, nhưng lỡ hứa rồi, không biết làm sao.
Sư nhận đồng xong, vua Tống sai bá quan tiễn Sư đưa về nước. Sư từ rằng:
- Một đãy đồng này, tự thân Bần tăng vận sức quảy nổi, không dám làm phiền nhọc các Ngài tiễn đưa.
Nói xong, Sư bước ra lấy đãy máng vào đầu gậy nhẹ nhàng mang đi. Đến sông Hoàng Hà, Sư lấy nón thả xuống nước sang sông chỉ trong khoảng chớp mắt đã đến bờ.
Về nước, Sư đến chùa Quỳnh Lâm huyện Đông Triều, tỉnh Hải Dương đúc một tượng Phật Di-đà thật cao lớn. Tại kinh đô nơi tháp Báo Thiên, Sư đúc một cái đỉnh. Ở Phả Lại, Sư đúc một quả đại hồng chung. Tại Minh Đảnh, Sư đúc một cái vạc.
Phần còn dư, Sư đem về chùa quê làng đúc một đại hồng chung nặng ba ngàn ba trăm cân, và đúc một đại hồng chung ở chùa Diên Phước Giao Thủy nặng ba ngàn cân. Công quả hoàn thành, Sư làm bài tán rằng:
Nón nổi vượt biển cả,
Một hơi muôn dặm đường.
Một đãy sạch đồng Tống,
Dang tay sức ngàn ngựa.
(Lạp phù việt đại hải,
Nhất tức vạn lý trình.
Tống đồng nhất nang tận,
Phấn tý thiên câu lực.)
Thời vua Lý Nhân Tông kiến tạo điện Hưng Long cả năm mới xong, điện cực kỳ tráng lệ. Bỗng trên nóc có hai con chim cáp đậu kêu to, tiếng vang như sấm. Vua lo buồn chẳng vui, quan chỉ huy thấy thế tâu:
- Điềm này chỉ có Minh Không và Giác Hải mới trừ được.
Vua bèn sai ông đi thỉnh Sư, ngày rằm tháng giêng, ông đến trước am Sư. Sư hỏi:
- Quan chỉ huy sao đến chậm vậy?
Ông hỏi lại:
- Sao Thầy biết trước chức của tôi?
Sư đáp:
- Ta cỡi trăng đạp gió chợt vào thành vua, sớm đã nghe biết việc này.
Liền hôm ấy, Sư đến kinh đô, thẳng đến điện Hưng Long, Sư tụng chú thầm, hai con chim lạ ấy nghẹn cổ chẳng kêu, giây lát sau liền rơi xuống đất. Vua thưởng cho Sư một ngàn cân vàng, và năm trăm khoảnh ruộng để hương hỏa cho chùa và phong chức Quốc sư.
Năm vua Lý Thần Tông hai mươi mốt tuổi, bỗng nhiên mắc bệnh biến thành cọp, ngồi xổm chụp người, cuồng loạn đáng sợ. Triều đình phải làm cũi vàng nhốt Vua trong đó. Khi ấy có đứa bé ở Chân Định hát rằng:
Nước có Lý Thần Tông,
Triều đình muôn việc thông.
Muốn chữa bệnh thiên hạ,
Cần được Nguyễn Minh Không.
Triều đình sai quan chỉ huy đi đón Sư. Đến am, Sư cười bảo:
- Đâu không phải là việc cứu cọp đó ư?
Quan chỉ huy hỏi:
- Sao Thầy sớm biết trước?
Sư bảo:
- Ta đã biết việc này trước ba mươi năm.
Sư đến triều vào trong điện ngồi, lên tiếng bảo:
- Bá quan đem cái đảnh dầu lại mau, trong đó để một trăm cây kim, và nấu cho sôi, đem cũi Vua lại gần đó.
Sư lấy tay mò trong đảnh lấy một trăm cây kim găm vào thân Vua, nói:
- Quí là trời.
Tự nhiên lông, móng, răng đều rụng hết, thân Vua hoàn phục như cũ. Vua tạ ơn Sư một ngàn cân vàng và một ngàn khoảnh ruộng để hương hỏa cho chùa, ruộng này không có lấy thuế.
Đến năm Đại Định thứ hai (1141), Sư qui tịch.
Hiện nay tại Hà Nội, trước đền thờ Lý Quốc Sư vẫn còn tượng Sư và có bia ký. Dân chợ Tiên Du muôn đời hương khói phụng thờ.
Chú thích: Nguyễn Minh Không hay Khổng Minh Không chùa Lý Quốc Sư, thôn Tiên Thị huyện Thọ Xương, nay là phố Lý Quốc Sư, quận Hoàn Kiếm, thủ đô Hà Nội.
Lời người soạn: Thiền sư Không Lộ không có trị bệnh vua Lý Thần Tông, vì khi Vua mắc bệnh hóa hổ lúc hai mươi mốt tuổi, nhằm năm 1136, còn Thiền sư Không Lộ tịch vào niên hiệu Hội Tường Đại Khánh thứ 10 tức là năm 1119. Thế là Không Lộ tịch trước khi vua Lý Thần Tông hóa hổ mười bảy năm.
Thiền sư Nguyễn Minh Không tịch năm 1141 mới thật sự là người trị bệnh hóa hổ cho vua Lý Thần Tông.
Thiền sư Nguyễn Minh Không là họ Nguyễn, sanh ngày 14 tháng 8 năm Bính Thìn (1076) tại làng Loại Trì, huyện Chân Định, tỉnh Nam Định. Thiền sư Không Lộ họ Dương, không biết năm sanh, quê ở Hải Thanh. Thiền sư Minh Không sau về quê tạo ngôi chùa Diên Phước ở đó. Thiền sư Không Lộ tạo chùa Nghiêm Quang sau đổi tên là Thần Quang. Cả hai họ khác, tên khác, xứ sở khác, tuổi tác khác và chỗ trụ trì khác mà nói là một người là không hợp lý.
---o0o---
Chùa Cổ Lễ
Chùa Cổ Lễ ở làng Cổ Lễ, huyện Tây Chân, nay thuộc thị trấn Cổ Lễ, huyện Nam Ninh, tỉnh Nam Định.
Từ thành phố Nam Định, qua cầu treo trên sông Đào, theo đường 21, đi khoảng 15km là đến thị trấn Cổ Lễ, quẹo mặt, qua cầu đi khoảng 200m nữa là tới chùa.
Theo lời truyền, chùa Cổ Lễ được thiền sư Minh Không thành lập vào năm Kỷ Sửu (1109), đời vua Lý Nhân Tông.

Thiền sư Minh Không tên Nguyễn Chí Thành (1076-1141), quê ở làng Loại Trì, huyện Chân Định, tu học với Thiền sư Từ Đạo Hạnh ở chùa Thiên Phúc hay chùa Thầy trên núi Sài Sơn (núi Thạch Thất) và đồng Thời cũng tham học với hai sư đệ của của bổn sư là Thiền sư Không Lộ và Thiền sư Giác Hải, cả ba vị đều từng vân du tu học ở ẤnĐộ và xứ Kim Xỉ (Miến Điện), nên Thiền sư Minh Không có nhiều thần thông đặc biệt.
Năm 1136, Thiền sư Minh Không trị hết bệnh “hóa hổ” (hóa cọp) của vua Lý Thần Tông nên được vua phong là Quốc sư. Thiền sư Minh Không viên tịch vào ngày mùng 1 tháng 8 năm Tân Sửu (1141), nhiều chùa ở miền Bắc vẩn còn thờ Quốc sư như: chùa Keo (Hành Thiện), chùa Lý Triều Quốc Sư (ở Thăng Long), chùa Quốc Thanh (ở Ninh Bình), chùa Cổ Lễ. . .
Vào đời Trần, trạng nguyên Đào Sư Tích và anh là tiến sĩ Đào Toàn... (?) quê ở Cổ Lễ, trùng tu lại chùa.
Đào Sư Tích đậu trạng nguyên trong khoa thi năm Giáp Dần (1374), đời vua Trần Duệ Tông, văn chương nổi tiếng. Thượng hoàng Trần Nghệ Tông giao cho biên soạn lại sách “Bảo hoa điện dư bút” (gồm 8 quyển) ghi chép những sự việc, biến cố xảy ra vào nhà Trần và sưu tập các châm ngôn đời trước còn lại.
Qua Thời gian và chiến tranh, chùa cũng bị hư hại.
Năm 1920, Hòa thượng Phạm Quang Tuyên hạ ba ngôi chùa nhỏ ở Cổ Lễ để dựng thành chùa Cổ Lễ ngày nay.
Chùa Cổ Lễ phối hợp giữa kiến trúc cổ truyền của Việt Nam và kiến trúc của Tây phương.
Trước chùa là tháp “Cửu phẩm Liên hoa” (xây năm 1926-1927), cao 12 từng, tháp và đế tháp được dựng trên một con rùa lớn, đầu quay vào chùa. Tháp bát giác (8 mặt), cao 32m. Trong lòng tháp có cầu thang xoáy trôn ốc lên đến đỉnh tháp.Từng trên cùng là điện Thờ Phật.

Tháp dựng trên lưng rùa, nằm giữa một hồ vuông rộng, bốn góc hồ có bốn hòn non bộ (giả sơn) khá lớn, áp sát vào bốn hòn non bộ có
tượng bốn con voi (to như voi thật).
Từ tháp Cửu phẩm Liên hoa đi qua cầu vòng xây bằng gạch, theo đường lót gạch là đến “Hội quán Phật giáo” là tòa nhà ba gian hai chái rộng, xây gạch, mái ngói có đầu đao cong vút.
Phía bên trái Hội quán là căn nhà ba gian, Thờ Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn và thờ hai anh em trạng nguyên Đào Sư Tích ở đây có tấm bia ghi lại tiểu sử của hai anh em Đào Sư Tích do tiến sĩ Ngô Thế Vinh soạn năm 1856. Bên trái phía trước Thờ bà Liễu Hạnh.
Từ khu Hội quán Phật giáo, qua hai cầu giả núi có mái che là đến sân chùa chánh, ở giữa sân là một đài vuông có ba từng cấp, trên đài có đặt một đại hồng chung rất lớn, trên chuông trang trí hình hoa sen và sóng nước. Xung quanh đài chuông có hàng rào bao quanh, có cửa ra vào.
Chùa chánh là tòa nhà rộng lớn, mái ngói ống, các đầu mái cong vút mỹ thuật, trên đỉnh nóc là tượng “lưỡng long triều nguyệt” (hai con rồng chầu mặt trăng).
Chánh điện Thờ Phật, tượng Phật bằng gỗ sơn son thếp vàng, cao 4m, trên trần trang trí tranh cảnh.
Sau chánh điện là nhà khách và nhà Tổ. Chùa hiện còn một trống đồng xưa (không có hoa văn), một đại hồng chung được đúc vào năm 1799 đời vua Cảnh Thịnh, một lá cờ hai mặt thêu các hàng chữ Nho: “Nam Thiên Thánh tổ” và “Lý Triều Quốc sư”.
Chùa còn có bốn thuyền dùng để thi “đua ghe” trong ngày lễ “hội chùa” vào tháng 9 âm lịch (như nhiều chùa khác Thờ Thiền sư Minh Không và Không Lộ ở miền Bắc).
|