Năm 1950

Năm 1950 (Canh Dần – PL.2494)

– Ngày 25 tháng Giêng năm Canh Dần, Hòa thượng Nhật Liên – Thiện Hóa (1883-1950), thuộc thiền phái Lâm Tế – Chánh Tông, đời thứ 41, trụ trì chùa Núi Châu Thới (Thuận An, Bình Dương), viên tịch, thọ 68 tuổi.

– Ngày 09 tháng 5 năm Canh Dần, Thiền sư Tâm Thông – Quảng Huệ (1903-1950) thế danh Nguyễn Quảng Huệ, pháp danh Tâm Thông, hiệu Quảng Huệ, sinh tại làng Khuông Ph , Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên, thuộc thiền phái Lâm Tế, đời thứ 43, trụ trì chùa Thiên Minh (Huế), thị tịch, hưởng dương 48 tuổi, 26 hạ lạp.

– Ngày 03 tháng 6 năm Canh Dần, Hòa thượng Chơn Giám – Trí Hải (1876-1950) thế danh Nguyễn Trọng Khải, pháp danh Chơn Giám, tự Đạo Quang, hiệu Trí Hải (còn hiệu khác Mai Đình) sinh tại ấp Háo Đức, xã Nhơn An, huyện An Nhơn, tỉnh  Bình Định, thuộc thiền phái Lâm Tế – Chúc Thánh, đời thứ 40, Tổ khai sơn chùa Bích Liên (Bình Định), viên tịch, thọ 74 tuổi.

– Ngày 03 tháng 9 năm Canh Dần, Thiền sư Nhựt Nhơn – Trí Huyền (1907-1950) thế danh Lê Văn Nhơn, húy Nhựt Nhơn, sinh tại Tân Ba, tỉnh Thủ Dầu Một, thuộc Tông Lâm Tế, đời thứ 41, trụ trì chùa Đại Giác (Biên Hòa – Đồng Nai), thị tịch, trụ thế 43 năm.

– Ngày 19 tháng 9 năm Canh Dần, Hòa thượng Như Đắc – Từ Nhẫn (1899-1950) thế danh Lê Ngọc Thập, húy Như Đắc, hiệu Từ Nhẫn, sinh tại làng Long Hậu Tây, tổng Phước Điền Hạ, quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn, thuộc thiền phái Lâm Tế – Gia Phổ, đời thứ 39, trụ trì chùa Linh Nguyên (Đức Hòa, Long An), thị tịch, trụ thế 52 năm, 31 hạ lạp.

– Ngày 23 tháng 12, Hòa thượng Chơn Hòa – Thiện Hữu (?-1950), thuộc thiền phái Lâm Tế – Chúc Thánh, đời thứ 40, trụ trì chùa Bửu Nghiêm (Thủ Dầu Một, Bình Dương), viên tịch.

– Ngày 05 tháng 12 năm Canh Dần, Hòa thượng Trừng Tương –  Nhơn Sanh (1896-1950) thế danh Võ Sanh, húy Trừng Tương, tự Thiện Thọ, hiệu Nhơn Sanh, sinh tại làng Ngọc Hội, xã Vĩnh Ngọc, TP. Nha Trang, thuộc thiền phái Lâm Tế – Liễu Quán, đời thứ 42, trụ trì Tổ đình Sắc tứ Thiên Bửu (Ninh Hòa, Khánh Hòa), viên tịch, trụ thế 55 năm, 29 hạ lạp.

– Đại đức Thanh Giới – Thiện Tường (1917-1984) được Hội Vạn Thọ hiến cúng ngôi chùa Vạn Thọ ở Tân Định, nay thuộc quận 1, Tp. HCM, để ngài tiếp tăng độ chúng.

– Thượng tọa Tâm Như – Trí Thủ (1909-11984) được bầu làm Hội trưởng hội Việt Nam Phật Học tại đại hội thường niên của hội.

– Đại đức Như Nhàn – Trí Giác (1915-2005) thành lập Sơn môn Tăng Già Quảng Nam.

– Thượng tọa Như Đăng – Trí Độ (1894-1979) được bầu làm Ủy viên Ủy ban Liên Việt tại tỉnh Thanh Hóa.

– Đại đức Thị Tín – Phước Trí (1920-2002) kế thế trụ trì Tổ đình Phước Sơn nay tại xã Xuân Sơn Bắc, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên.

– Thượng tọa Đạo Thông – Trí Thắng (1891-1975) được cung thỉnh vào ngôi vị Chứng minh Đạo hạnh của Hội Việt Nam Phật học Trung Việt và kiêm chức vụ Hội trưởng Hội Việt Nam Phật học tỉnh Ninh Thuận. Cũng năm này, ngài được chư sơn cung thỉnh làm Trị sự trưởng GHTG Ninh Thuận, đồng thời ngài cho tái thiết chùa Long Quang.

– Đại đức Như Vinh – An Chánh (1922-1990) đảm nhận trụ trì chùa Bác Ái tại Kontum.

– Đại đức Trí Đức – Thiện Siêu (1921-2001) được suy cử làm Chánh Hội trưởng Tỉnh hội Phật giáo Thừa Thiên (1950-1955).

– Sư cô Tâm Niệm – Như Trí (1918-2006) về trụ trì chùa Thiên Long nay thuộc quận Phú Nhuận, Tp. HCM.

– Sư cô Nhựt Trinh – Liễu Tánh (1916-1982) khai trường Hương tại chùa Phật Quang – Bến Tre và làm Thiền chủ kiêm Pháp sư.

– Hòa thượng Trừng Thông – Tịnh Khiết (1890-1973) được suy tôn chức vị Hội chủ Tổng hội Phật giáo Việt Nam.

– Thiền sư Giải Thâm – Kế Châu (1922-1996) được cung thỉnh trụ trì chùa Bảo Sơn tại xã Mỹ Thành, huyện Phú Mỹ.

– Đại đức Nguyên Cao – Mãn Giác (1929-2006) được suy cử giữ chức trụ trì chùa Thiên Minh ở Thuận Hóa – Huế.

– Thượng tọa Phước Bình – Hành Trụ (1904-1984) được cung thỉnh làm Hòa thượng Đàn đầu, Hòa thượng Hải Tràng, Hòa thượng Đạo Thanh làm Giới sư cho Trường Kỳ giới đàn chùa Pháp Hoa thuộc quận Phú Nhuận, tỉnh Gia Định.

– Hòa thượng Giác Trang – Hải Tràng (1884-1972) được cung thỉnh làm Hòa thượng Đàn đầu cho Trường Kỳ giới đàn chùa Thanh Trước tỉnh Gò Công.

– Hòa thượng Trừng Kệ – Tôn Thắng (1889-1976) được cung thỉnh làm Hòa thượng Đàn đầu cho giới đàn chùa Sắc tứ Phổ Thiên nay tại thị xã Đà Nẵng, tỉnh Quảng Nam.

– Hòa thượng Như Đắc – Từ Nhẫn (1899-1950) được cung thỉnh làm Đàn sư cho đàn giới pháp chùa Tôn Thạnh tại xã Tân Kim, huyện Cần Giuộc, tỉnh Tân An.

– Đầu năm, Thiền sư Thanh Thao – Trí Hải (1909-1979) vận động quyên góp tiền nhiều nơi, gởi sang Nhật Bản thỉnh được bộ “Tân Tu Đại chính Đại tạng”. Toàn tạng đóng thành 100 tập, nội dung có 2920 kinh sách khác nhau, bao gồm cả Kinh, Luật và Luận, gởi về chùa Quán Sứ, Hà Nội, phí tổn hơn 2 vạn đồng Đông Dương (BNSPGMB).

– Các nhà sư Thiền phái Lâm Tế thuê dỡ chùa Cần Dà ở thôn Thịnh Yên, đem vật liệu về tu sửa chùa Linh Quang (chùa Bà Đá ở phố Nhà Thờ, Hà Nội), vì chùa này bị phá hủy nhiều trong chiến tranh cuối năm 1946.

– Hòa thượng Như Hiển – Đạt Dương (1883-1971) thành lập chùa Hoằng Khai trên khu đất rộng khoảng 1.000m2, hiện tọa lạc tại số 94/2, khu phố Nhơn H a, phường 5, TP. Tân An, tỉnh Long An.

– Sư cô Diệu Thành (1910-1980) thành lập Tịnh Thiền viện (sau đổi hiệu là chùa Hội Nguyên) nay tọa lạc tại số 3/171, đường Nguyễn Thị Hạnh, phường 6, TP. Tân An, tỉnh Long An, trên khu đất của gia đình hiến cúng, được Hòa thượng Như Thuận – Hoằng Đức (1888-1992) chứng minh và đặt tên viện.

– Đại đức Nguyên Nhân – Giác Lễ (?-1977) khai sơn chùa Phước Lộc nay tại xã Lộc Giang, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.

– Đại đức Thiện Thạnh – Hồng Trọng (1904-1980) khai sơn chùa Long Nguyên nay tại số 58, ấp Chánh, xã Đức Lập Hạ, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An, trên khu đất gia đình hiến cúng.

– Đại đức Thích Thiện Lợi (1907-1978) sáng lập chùa Cửu Long nay tại số 52/2, ấp Tân Bình, thị trấn Tân Trụ, huyện Tân Trụ, tỉnh Long An, do vợ chồng Phật tử Trần Quang Thố và Nguyễn Thị Kiên hiến cúng 6.000m2 đất.

– Khoảng năm 1950, Thiền sư Trừng Chiêm – Chánh Lễ (?-1950 ?), thuộc thiền phái Lâm Tế – Liễu Quán, đời thứ 42, trụ trì chùa Long Thạnh (Quy Nhơn, Bình Định), viên tịch.

– Đại đức Lệ Huệ – Thiện Chí (1911-1953) kế thế trụ trì chùa Núi Châu Thới nay thuộc xã Bình An, huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

– Đại đức Chơn Dung – Chí An (1902-1970) kế thế trụ trì chùa Bửu Nghiêm nay thuộc phường Chánh Nghĩa, thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.

– Sư cô Nhật Thiền – Như Chơn (1919-2004) cùng bổn đạo khai sơn xây dựng đạo tràng chùa Vạn Phước tại xã Kim Sơn, tỉnh Bến Tre. Đến năm 1960, Chùa xây dựng hoàn thành.

– Hòa thượng Hồng Tôi – Thiện Tường (1890-1959) trở về Cần Thơ tiếp nhận chùa Bửu Liên để hành đạo, hoằng dương Phật pháp.

This entry was posted in . Bookmark the permalink.