Năm 1967

Năm 1967 (Đinh Mùi – PL.2511)

– Ngày 08 tháng 2 năm Đinh Mùi, Hòa thượng Trừng Thành – Vạn Ân (1886-1967), húy Trừng Thành, sinh tại thôn Vạn Lộc, xã Hòa Mỹ, huyện Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên, thuộc thiền phái Lâm Tế – Liễu Quán, đời thứ 42, Tổ khai sơn chùa Hương Tích (Phú Yên), viên tịch, thọ 82 tuổi, 61 hạ lạp. Sinh tiền, ngoài việc thuyết giảng giáo lý, Hòa thượng còn sáng lập và trùng tu trên 25 ngôi chùa.

– Ngày 25 tháng 3 (nhằm ngày 15 – 2 – Đinh Mùi), GHPGVNTN tổ chức Lễ trà tỳ nhục thân Cố Hòa thượng Chơn Quý – Khánh Anh (1895-1961) thuộc thiền phái Lâm Tế – Chúc Thánh, đời thứ 40, trụ trì chùa Phước Hậu (Vĩnh Long), Pháp chủ GHTGNV. Sau đó, rước linh cốt về chùa Ấn Quang và chia thờ các nơi : chùa Ấn Quang (Sài Gòn), chùa Long Phước (Trà Vinh), Tháp Đa Bảo ở chùa Phước Hậu (Cần Thơ), chùa Long Phước (Vĩnh Long) (TSDTVN).

Ngày 10 tháng 4, Ni sư Hồng Hảo (?-1975) khai sơn xây dựng động đá Linh Quang Tịnh thất nay tại số 37/37A, đường Trần Xuân Độ, phường 6, TP. Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, đến ngày 28/4/1967 hoàn thành.

– Ngày 23 tháng 7, Hòa thượng Thanh Giới – Thiện Tường (1917-1984) được cung thỉnh làm Hòa thượng Đàn đầu, Hòa thượng Chơn Tảo – Nhựt Minh làm Giáo thọ cho giới đàn tại Việt Nam Quốc tự nay thuộc phường 12, quận 10, Tp. HCM.

– Ngày 11 tháng 9, Đức Tăng thống Trừng Thông – Tịnh Khiết (1890-1973) triệu tập các Trưởng giáo phái, hội đoàn sáng lập GHPGVNTN để thông báo về việc chính quyền Thiệu – Kỳ kỳ thị tôn giáo qua Sắc luật 23/67 và thành lập Ủy ban Bảo vệ Hiến chương (BNSPGGĐ-SG).

– Ngày 31 tháng 10, Thánh tử đạo Thị Hoàng – Giác Bình (1948-1967) thế danh Trần Văn Minh, pháp danh Thị Hoàng, tự Hạnh Đức, sinh tại xã Bình Đức, quận Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, thuộc thiền phái Lâm Tế – Chúc Thánh, đời thứ 42, tu học tại chùa Viên Giác (Quảng Ngãi), thiêu thân để bảo vệ Đạo pháp trước sân chùa Tỉnh hội Phật giáo Quảng Ngãi (LSTTTPLTCT).

– Hòa thượng Hành Thiện – Hưng Từ (1911-1991) khai sơn chùa Pháp Hội ở xã Tân An, huyện Hàm Tân, tỉnh Bình Thuận.

– Hòa thượng Trừng Văn – Giác Nguyên (1877-1980) đứng ra lập Tịnh nghiệp đạo tràng Tây Thiên, với sự hỗ trợ và chấp thuận của Giáo hội Phật giáo Thừa Thiên và miền Vạn Hạnh.

– Thượng tọa Như Long – Huyền Tế (1905-1986) được Giáo hội cung thỉnh làm trụ trì chùa Tỉnh hội PGVNTN tại Quảng Ngãi (1967 – 1969).

– Hòa thượng Đồng Kỉnh – Tín Quả (1891-1978) khai sơn chùa Thiền Lâm (Đồng Đế, tỉnh Khánh Hòa).

– Thượng tọa Tâm Như – Mật Nguyện (1911-1972) đứng ra tổ chức lớp chuyên khoa nội điển Liễu Quán tại chùa Linh Quang (Thừa Thiên – Huế), do Ngài làm Giám đốc và chủ giảng lớp học này; Thượng tọa Tâm Hương – Mật Hiển được mời làm giáo sư.

– Hòa thượng Chơn Tá – Tôn Bảo (1895-1974) được suy tôn vào Hội đồng Viện Tăng thống GHPGVNTN. Cũng năm này, ngài được cung thỉnh làm Hòa thượng Đàn đầu cho giới đàn xuất gia tại chùa Long Tuyền, thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam.

– Đại đức Như Vạn – Trí Phước (1930-1980) đại trùng tu Tổ đình Phước Lâm ở Hội An, Quảng Nam.

– Thượng tọa Như Bình – Huyền Tịnh (1914-2003) khai sơn chùa Từ Quang ở tỉnh Quảng Ngãi.

– Đại đức Thị Duật – Liễu Không (1931-1999) kế thế trụ trì Tổ đình Thiên Bình nay ở làng Trung Lý, xã Nhơn Phong, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định.

– Thượng tọa Thị Tín – Phước Trí (1920-2002) được mời làm Giáo thọ sư Phật học viện Bảo Tịnh tỉnh Phú Yên (1967 – 1969).

– Thượng tọa Hạnh Phát – Phước Huệ (1929-1989) đảm nhận chức vụ Đặc ủy Tăng sự (Phật giáo tỉnh Khánh Hòa) (1967 – 1968).

– Đại đức Hạnh Huệ – Đỗng Minh (1927-2005) được mời giữ chức CĐD miền Khuông Việt, bao gồm các tỉnh cao nguyên Trung Phần.

– Ni sư Diệu Ninh – Như Huệ (1914-1984) hướng dẫn phái đoàn chư Ni Việt Nam sang hành hương các nước Nhật Bản, Đài Loan.

– Ni sư Hồng Ẩn – Như Thanh (1911-1999) mở trường Trung Tiểu học Kiều Đàm, gồm 14 lớp học, dạy từ Mẫu giáo đến lớp 9, có khoảng 800 học sinh.

– Bảo tháp Hòa thượng Tế Hẩu – Khánh Liên, thuộc thiền phái Lâm Tế – Liễu Quán, đời thứ 36, được tái lập trong khu vườn tháp chùa Bảo Tịnh nay ở số 174, đường Phan Đình Phùng, thị xã Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên.

– Hòa thượng Tâm Cảnh – Giác Hạnh (1880-1981) tiếp nhận chùa Tuệ Quang nay tại số 55, đường Tuệ Tĩnh, quận 11, Sài Gòn.

– Thượng tọa Trí Hải – Quảng Liên (?-2009) khai sơn Tu viện Quảng Đức nay tại số 2, đường Đặng Văn Bi, tổ 11, khu phố 6, phường Trường Thọ, quận Thủ Đức, Tp. HCM.

– Đại đức Nhựt Điện – Thiện Ký (1921-?) khai sơn chùa Từ Huệ nay tại xã Tam Phước, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre.

– Hòa thượng Phước Bình – Hành Trụ (1904-1984) được cung thỉnh làm Hòa thượng Đàn đầu, Hòa thượng Thiện Tường làm Giới sư cho giới đàn chùa Giác Nguyên tại phường Vĩnh Hội, quận 4, Sài Gòn.

– Ni sư Diệu Liên – Tâm Hoa (1916-?) nhận chùa Bà Cửu Tám tại thôn An Mỹ, Gia Lai. Ni sư trùng tu chánh điện chùa và đổi hiệu thành chùa An Thạnh.

Hòa thượng Hồng Diệp – Thiện Trang (1902-1975) được suy tôn làm Phó tăng trưởng Phật giáo Cổ Sơn Môn tỉnh Bình Dương (STPGBD).

– Hòa thượng Hồng Tín – Huệ Thành (1912-2001) được tôn cử chức vụ Đại Tăng trưởng GHPG Lục hòa Tăng. Cũng năm này,  ngài mở trường hạ tại Tổ đình Long Thiền (Biên Hòa – Đồng Nai), Hòa thượng làm Chủ hương kiêm Chứng minh, qui tụ đại chúng tại hạ trường trên 300 vị.

– Hòa thượng Chơn Thanh – Bích Nguyên (1900-1987) được cử về trụ trì chùa Viên Giác (chùa Làng) hiện tại Cầu Đất, xã Xuân Trường, Tp. Đà Lạt.

– Sư cô Như Định (1935-?) khai sơn Kim Quang Thiền viện (Kim Quang Ni tự) nay tại phường An H a, thị xã Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang.

– Thượng tọa Nhật Thọ – Thiện Phước (1917-1994) về trụ trì chùa Phật Học Cần Thơ hiện tại số 11, đại lộ Hòa Bình, Tp. Cần Thơ.

This entry was posted in . Bookmark the permalink.