Năm 1971

Năm 1971 (Tân Hợi – PL.2515)

– Ngày 26 tháng Giêng năm Tân Hợi, Ni trưởng Trừng Ninh – Diệu Hương (1884-1971) thế danh Nguyễn Thị Kiều, pháp danh Trừng Ninh, hiệu Diệu Hương, nguyên quán tại Dạ Lê Hạ, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên – Huế, thuộc thiền phái Lâm Tế – Liễu Quán, đời thứ 42, Chủ tọa Ni trường Diệu Đức (Huế), viên tịch, thọ 88 tuổi, 47 hạ lạp.

– Ngày 04 tháng 4 (nhằm ngày 09 – 3 – Tân Hợi), Hòa thượng Như Quang – Trí Minh (1904-1971) thế danh Đinh Văn Nhiên, pháp danh Như Quang, tự Giải Chiếu, hiệu Trí Minh, sinh tại xã Điện Tiến, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, thuộc thiền phái Lâm Tế – Chúc Thánh, đời thứ 41, trụ trì chùa Pháp Bảo (Quảng Nam), viên tịch, thọ 68 tuổi.

– Ngày 08 tháng 4 năm Tân Hợi, Lễ khai giảng khóa tu thiền tại Tu viện Chơn Không thuộc Núi Lớn – Vũng Tàu, dưới sự chứng minh của Hòa thượng Tâm Lợi – Thiện Hòa (1907-1978), Thượng tọa Tâm Ba – Bửu Huệ,…Khóa tu do Viện chủ tu viện Chơn Không, Thiền sư Thích Thanh Từ tổ chức và hướng dẫn.

– Ngày 02 tháng 7 (nhằm ngày 10 – 5 – Tân Hợi), Hòa thượng Nhuận Huê – Thiện Hương (1903-1971) thế danh Lê Văn Bạch, pháp danh Thị Huê, tự Thiện Hương, hiệu Nhuận Huê, sinh tại làng Tương An, tổng Bình Thổ, tỉnh Thủ Dầu Một, thuộc Tông Lâm Tế – Chúc Thánh, đời thứ 42, Đệ nhất Phó Tăng giám Trung Ương Giáo hội Lục hòa Tăng, trụ trì chùa Hội Khánh (Thủ Dầu Một), viên tịch, thọ 68 tuổi, 48 giới lạp.

– Ngày 03 tháng 10, Tu viện Quảng Đức, huyện Thủ Đức, tỉnh Gia Định mở giới đàn, Hòa thượng Tâm Như – Trí Thủ (1909-1984) được cung thỉnh làm Hòa thượng Đàn đầu, Hòa thượng Phước Bình – Hành Trụ làm Yết Ma, Hòa thượng Trí Hữu làm Giáo thọ, Hòa thượng Huệ Hưng làm Đệ tứ tôn chứng, Hòa thượng Bửu Huệ làm Đệ ngũ tôn chứng (BNSGĐTVN).

– Sách Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh, tác giả Hải Lượng (Ngô Thì Nhậm), Hải Âu và Hải H a, do Á Nam Trần Tuấn Khải thực hiện, xuất bản tại Sài Gòn.

– Hòa thượng Phước Bình – Hành Trụ (1904-1984) được suy cử làm Phó Chủ Tịch Hội Đồng Giám Luật Viện Tăng Thống GHPGVNTN.

– Hòa thượng Hành Thiện – Phúc Hộ (1904-1985) được cung thỉnh vào Hội Đồng Trưởng Lão Viện Tăng Thống GHPGVNTN kiêm luôn chức Giám luật viện này.

– Hòa thượng Thích Thế Long (1909-1985) được suy cử chức Phó Hội trưởng kiêm Tổng thư ký BTS TW. GHPGVNTN tại Đại hội kỳ IV.

– Hòa thượng Trừng Nguyện – Đôn Hậu (1905-1992) đi dự Đại hội thành lập tổ chức Phật giáo Châu Á vì Hòa Bình ở Mông cổ và được cử làm Ủy viên thường trực Ban Chấp hành Hội Phật giáo Châu Á vì Hòa Bình (TSDTVN).

– Hòa thượng Hồng Phương – Trí Đức (1915-1999) được suy tôn làm Hòa thượng Đường đầu tại giới đàn chùa Quan Âm (Cà Mau) do Giáo hội tổ chức.

– Thượng tọa Tăng Đức Bổn (1917-2000) sáng lập và khởi công xây dựng tịnh xá Di Đà trên phần đất của Bệnh viện Phúc Kiến hiến tặng.

– Thượng tọa Chí Niệm (1918-1979) trùng tu cổng tam quan, hồ bán nguyệt và những gian nhà bị hư hỏng ở chùa Từ Hiếu nay thuộc Tp. Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế.

– Hòa thượng Đồng Kỉnh – Tín Quả (1891-1978) khai sơn chùa Bảo Hoa ở Ninh Quang, huyện Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa.

– Sách Thiền Học Trần Thái Tông của tác giả Nguyễn Đăng Thục được Viện Đại Học Vạn Hạnh ấn hành.

– Hòa thượng Chơn Tá – Tôn Bảo (1895-1974) được cung thỉnh làm Chứng minh Đạo sư cho Phật học viện Quảng Nam.

– Ni sư Thị Hương – Diệu Hoa (1925-1995) khai sáng chùa Kiều Đàm tại xã Cát Tân, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định.

– Hòa thượng Đồng Bửu – Quảng Viên (1910-1988) kế thế trụ trì Tổ đình Hội Khánh nay tại phường Phú Cường, thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.

– Ni trưởng Như Tịnh (pháp danh Thị Thanh, tự Hạnh Nguyện), thuộc thiền phái Lâm Tế – Chúc Thánh, đời thứ 42, về trụ trì chùa Tuệ Quang (Đà Lạt).

– Ni sư Diệu Ninh – Như Huệ (1914-1984) từ Nhật Bản về nước, tiếp tục trụ trì Thiền Đức Ni tự và trùng tu chùa Vĩnh Bửu.

– Ni sư Nhật Tường – Như Hòa (1923-2000) cùng Ban Giám đốc Ni trường Dược Sư (TP. HCM) tham học khóa thiền tại Tu viện Chơn Không (Vũng Tàu).

– Ni sư Không Luân – Thể Quán (1911-1982) được suy cử làm Giám luật Ni bộ Bắc tông GHPGVNTN tỉnh Thừa Thiên – Huế.

– Ni sư Tâm Nguyệt – Thể Yến (1908-1989) được Ni bộ Thừa Thiên – Huế công cử làm Giám viện chùa Diệu Đức nay tại Tp. Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế.

– Đại đức Nguyên Minh – Viên Quang (1921-1991) được suy cử làm trụ trì chùa Tỉnh Hội (Phú Yên).

– Thượng tọa Đồng Chơn – Thông Niệm (1914-1990) đại trùng tu chùa Bát Nhã tại thị xã Đà Nẵng.

– Thượng tọa Lệ Hòa – Thiện Nhu (1917-2003) được suy cử làm CĐD Phật giáo tỉnh Long An (1971-1975).

– Lễ khánh thành Tu viện Quảng Đức nay thuộc huyện Thủ Đức, Tp. HCM, do Thượng tọa Trí Hải – Quảng Liên (1925-2009) khai sơn.

– Hòa thượng Hoằng Thông – Minh Thành (1901-1979) được GHPGVNTN suy cử làm Viện trưởng Viện Hóa Đạo, khối Việt Nam Quốc Tự và Phật giáo Thế giới Liên xã, cung thỉnh Hòa thượng làm Chủ tịch danh dự.

– Chùa Giác Lâm thuộc phường  Phú Thọ, tỉnh Chợ Lớn khai Trường Hương – trường Kỳ giới đàn, Hòa thượng Nhật Dần – Thiện Thuận (1900-1973) được cung thỉnh làm Hòa thượng Đàn đầu, Hòa thượng Huệ Sanh làm Giáo thọ.

– Chùa Linh Sơn thuộc phường Cầu Muối, quận Nhất, Sài Gòn mở giới đàn, Hòa thượng Chơn Tảo – Nhật Minh (1908-1993) được cung thỉnh làm Hòa thượng Đàn đầu.

– Thượng tọa Bổn Nam – Huệ Minh (1925-2002) trùng tu chùa Khánh An nay tại số 204, tổ 7, ấp 1A, xã Long Sơn, huyện Cần Đước, tỉnh Long An. Chùa xây dựng lại bằng bê-tông cốt thép, nền xi măng, mái lợp tôn.

– Đại đức Thích Quảng Tài (1949-?) thành lập chùa Phổ Đà nay tại số 111, ấp Rừng Dầu, xã Mỹ Hạnh Bắc, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An, trên khu đất gia đình hiến cúng.

– Thượng tọa Tâm Dung – Huệ Nhật (1918-1991) đại trùng tu chùa Long Thạnh nay tại thôn Tây Định, phường Nhơn Bình, TP. Quy Nhơn, tỉnh Bình Định.

– Hòa thượng Nhật Tinh – Trí Tấn (1906-1995) đảm nhận chức vụ Tăng trưởng Phật giáo Cổ truyền Lục hòa Tăng, tỉnh Biên Hòa.

– Đại đức Chơn Nghiêm – Tâm Thanh (1931-2004) khai sơn Vĩnh Minh tự viện tại thôn Phú An, xã Phú Hội, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng.

– Thượng tọa Hồng Căn – Nguyên Tịnh, thuộc thiền phái Lâm Tế – Gia Phổ, đời thứ 40, kế thế trụ trì Bửu Lâm Cổ tự tại thôn Phú Hội, Định Tường, nay là phường 3, TP. Mỹ Tho (1971-1976).

– Hòa thượng Trí Hưng kế thế trụ trì chùa Phước Lâm nay tại số 1B12, đường Phan Chu Trinh, khu phố 2, thị xã Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh (1971-1981).

– Thượng tọa Nguyên Thanh – Chơn Trí kế thế trụ trì chùa Phước Long, nay ở ấp 7, xã Tân Tây, huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang.

– Hòa thượng Kiểu Quang – Bửu Ngươn (?-1971), thuộc thiền phái Lâm Tế – Chánh Tông, đời thứ 40, trụ trì chùa Sắc Tứ Thập Phương (Kiên Giang), viên tịch.

– Yết – ma Chí Hoằng kế thế trụ trì chùa Sắc Tứ Thập Phương hiện ở số 9/2, đường Lê Lai, phường Vĩnh Thanh, Tp. Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang (1971-1988).

– Ni sư Diệu Không (1905-1997) khai sáng xây dựng chùa Diệu Giác hiện tại số 6/10, đường Trần Não, phường Bình An, quận 2, Tp. HCM.

– Đại đức Hạnh Nhơn – Đỗng Quán (1925-2009) khởi công tái thiết chùa Sắc tứ Tịnh Liên nay tại thôn Liêm Trực, thị trấn Bình Định, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định.

– Thượng tọa Chân Từ – Thanh Kiểm (1920-2000) cùng chư tôn đức Tăng Ni, Phật tử thuộc Miền Vĩnh Nghiêm xây dựng chùa Vĩnh Nghiêm để làm trụ sở cho Miền và môn phái.

This entry was posted in . Bookmark the permalink.