● (Hoa Nghiêm kinh 華嚴經, S: Buddhàvatamsaka-mahãvaipulya, Nh. Kegon-kyo, Ph. Avatamsaka Sutra). Tên đầy đủ là Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh (Buddhavatamsaka-mahavaipulya-sutra). Bộ kinh trọng yếu của Phật giáo Đại thừa, cũng là pháp môn tự nội chứng mà Như Lai tuyên thuyết cho các Bồ-tát thượng vị như bồ-tát Văn-thù, bồ-tát Phổ Hiền, sau khi Ngài thành đạo dưới cội Bồ-đề. Theo truyền thuyết, sau khi thành đạo, đức Thích Ca Mâu Ni đã ngồi yên tại cội bồ-đề trong 21 ngày, đầu tiên là chiêm nghiệm lại tất cả những gì Ngài đã vừa thực chứng; rồi tiếp đó, Ngài đã khai pháp hội đầu tiên, tuyên thuyết kinh Hoa Nghiêm, để nói những pháp môn nội chứng của chính Ngài, mà thính chúng toàn là các vị Đại Bồ-tát như Văn Thù, Phổ Hiền, v.v…; bởi vậy, người phàm phu thế gian lúc bấy giờ không thể trông thấy pháp hội này. Giáo pháp Hoa Nghiêm là loại pháp môn đốn giáo, vô cùng cao sâu mầu nhiệm, không phù hợp với căn cơ của chúng sinh đương thời, vì thế, cũng như các kinh điển cao diệu (đại thừa) khác, kinh Hoa Nghiêm đã không được phổ biến ở thế gian trong một thời gian dài. Mãi đến khoảng thế kỉ thứ nhất TL, kinh này mới được kết tập, và sang thế kỉ thứ 2 mới được Bồ-tát Long Thọ chính thức tuyên dương, trong phong trào hưng khởi và phát triển Phật giáo đại thừa.
Theo ngài Pháp Tạng viết trong quyển Hoa Nghiêm Kinh Truyện Kí, bộ kinh Hoa Nghiêm do ngài Long Thọ phát hiện được, gồm có 3 phần Thượng, Trung và Hạ. Hai phần Thượng và Trung thì số phẩm cũng như số kệ tụng quá lớn, sức người không thể nào thọ trì nổi, nên ngài Long Thọ đã không truyền bá. Ngài chỉ giới thiệu phần Hạ của bộ kinh này mà thôi, tức bản Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh gồm mười vạn kệ tụng. Bản kinh này, vào đầu thế kỉ thứ 5 bắt đầu được truyền sang Trung-quốc, trước sau có ba bản dịch:
1) Lục Thập Hoa Nghiêm: cũng gọi là Cựu Hoa Nghiêm. Năm 392, đệ tử của ngài Tuệ Viễn ở Lô-sơn là Chi Pháp Lãnh, khởi hành sang Tây-vức cầu pháp. Khi sang đến nước Vu-điền, ngài tìm được bản Phạn văn của kinh Hoa Nghiêm gồm 36.000 kệ tụng. Năm 408 ngài về nước, đã mang theo bản kinh chữ Phạn ấy về; và đến năm 418 thì ngài Phật Đà Bạt Đà La, tại chùa Đạo-tràng ở kinh đô Kiến-khang dưới triều vua An đế (397-418) thời Đông-Tấn (317-420), đã dịch kinh ấy ra Hán văn với tên Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, gồm 60 quyển. Đó là bản dịch kinh Hoa Nghiêm đầu tiên ở Trung-quốc, thường được gọi là Lục Thập Hoa Nghiêm Kinh, cũng gọi là Cựu Hoa Nghiêm Kinh, hay Tấn Kinh. Bố cục của kinh này chia thành 7 chỗ (thất xứ) 8 hội (bát hội); nội dung chia thành 34 phẩm, gồm 60 quyển.
2) Bát Thập Hoa Nghiêm: cũng gọi là Tân Hoa Nghiêm, hay Đường Kinh, gồm 80 quyển. Năm 695, ngài Thật Xoa Nan Đà (652-710), đáp ứng lời thỉnh cầu của nữ hoàng Võ Tắc Thiên, từ nước Vu Điền đã đến Thần-đô (Lạc-dương), mang theo bản chữ Phạn của bộ kinh Hoa Nghiêm đầy đủ hơn; rồi tại chùa Đại Biến-không (dịch từ năm 695, đến năm 699 thì hoàn tất),
Trong thời gian ngài dịch kinh, đích thân nữ hoàng Võ Tắc Thiên thường đến dịch trường để coi sóc và tự tay viết tựa đề của từng phẩm kinh
Các ngài Bồ Đề Lưu Chí (Bodhiruci, 562-727, người Nam Ấn, đến Trường-an năm 693), Nghĩa Tịnh (635-713), Pháp Tạng (643-712) v.v… cũng tham gia vào công tác dịch kinh này. So với bộ Lục Thập Hoa Nghiêm Kinh ở trên, bộ này đầy đủ hơn (gồm 7 chỗ, chín hội, và 39 phẩm), văn từ trong sáng, trôi chảy hơn, nghĩa lí bao trùm trọn vẹn, cho nên đã được lưu hành rộng rãi hơn. Nó cũng đã được tông Hoa Nghiêm chọn làm bộ kinh căn bản để xây dựng giáo nghĩa nền tảng cho tông phái.
Đó là bản dịch kinh Hoa Nghiêm thứ hai tại Trung-quốc, thường được gọi là Bát Thập Hoa Nghiêm Kinh, cũng gọi là Tân Hoa Nghiêm Kinh, hay Đường Kinh.
3) Tứ Thập Hoa Nghiêm: cũng gọi là Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh Nhập Bất Khả Tư Nghị Giải Thoát Cảnh Giới Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm, gọi tắt là Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm, gồm 40 quyển, do ngài Bát Nhã (Prajna, 734-?, người nước Kế-tân, đến Trung-quốc năm 781) dịch tại chùa Sùng-phước ở Trường-an, dưới triều vua Đường Đức-tông (780-805), từ năm 796, đến năm 799 thì dịch xong. Nguyên bản Phạn ngữ của kinh này, nguyên là bản chép tay của chính vua nước Sư-tử ở Nam-Ấn.
Năm 795, nhà vua đã cho sứ giả đem bản chép tay ấy sang Trường-an (sau khi lấy ngôi vua trở lại từ Võ Tắc Thiên, năm 705, nhà Đường đã dời kinh đô về lại thành Trường-an như cũ), tặng cho vua Đức-tông nhà Đường. Lúc ấy ngài Bát Nhã đã từ Quảng-châu về trú tại chùa Sùng-phước ở kinh đô Trường-an đã lâu; cho nên, sang năm 796, vua Đức-tông đã cho đem bản Phạn văn ấy đến chùa Sùng-phước, mệnh cho ngài Bát Nhã dịch ra Hán văn, tức là bộ Tứ Thập Hoa Nghiêm Kinh. Bộ này tương đương với phẩm “Nhập Pháp Giới” trong cả hai bộ Lục Thập Hoa Nghiêm và Bát Thập Hoa Nghiêm ở trên. Tuy nó chỉ gồm có một phẩm, nhưng chiếm đến hơn một phần tư toàn bộ kinh Hoa Nghiêm, cho nên đã nghiễm nhiên được coi là một bản dị dịch của kinh Hoa Nghiêm.