● “Lưu” nghĩa là dòng; có hai dòng xuôi ngược : một chiều là dòng thánh (hay dòng giải thoát, dòng niết bàn), một chiều là dòng phàm phu (hay dòng vọng nghiệp, dòng sinh tử). Khi nói “nhập lưu” thì có nghĩa là vào dòng thánh; trái lại là “xuất lưu”, tức là xa lìa dòng thánh mà xuôi theo dòng sinh tử. “Nhập Lưu” cũng tức là “nghịch lưu”, nghĩa là đi ngược dòng sinh tử để nhập vào dòng niết bàn; trái lại là “thuận lưu”, tức là trôi xuôi theo dòng sinh tử. Chữ “sở” ở đây là chỉ tất cả những gì nghe được, tức là thanh trần.“Vong sở” tức là quên đi cái sở-văn, cũng tức là xa lìa thanh trần. Trong kinh Lăng Nghiêm, khi đức Bồ-tát Quán Thế Âm trình bày về pháp môn Nhĩ Căn Viên Thông (tức pháp môn thứ 25 vừa nói trên) của mình, có nói:“Sơ ư văn trung, nhập lưu vong sở, sở nhập kí tịch, liễu nhiên bất sinh……” (Đầu tiên là ở trong tánh nghe,nhập vào dòng, quên sở-văn, sở và nhập đã vắng lặng thì hai tướng động và tĩnh tuyệt nhiên không phát sinh……) Vậy, hai từ “nhập lưu” và “vong sở” ở đây, đều là những dụng ngữ đặc biệt của kinh Lăng Nghiêm, nói lên một phần giáo nghĩa chủ yếu của kinh Lăng Nghiêm, nhất là trong pháp tu Lăng-nghiêm Đại Định.
Nhập Lưu Vong Sở
Bộ từ điển: Chú Thích Phật Học - Pháp Thí Hội
