Năm 1823

Năm 1823 (Quý Mùi – PL.2367), niên hiệu Minh Mệnh (1820-1840) thứ 11, đời vua Thánh Tổ (Nguyễn Phúc Đảm, 1820-1840).

– Ngày 15 tháng 3 năm Quý Mùi, Thiền sư Toàn Định – Bảo Tạng (1789-1842) được Hòa thượng Pháp Liêm – Minh Giác (1747-1830) ban cho Pháp quyển, ấn chứng và ban hiệu là Bảo Tạng. Sau đó, Thiền sư về trụ trì chùa Thắng Quang (Bình Định).

– Hòa thượng Liễu Đạt – Thiệt Thành (?-1823) hiệu Liên Hoa, thuộc thiền phái Lâm Tế, đời thứ 35, xin từ chức Tăng cang chùa Thiên Mụ (Phú Xuân – Huế) để trở về trụ trì chùa Từ Ân (Gia Định). Cũng năm này, Thiền sư lên chùa Đại Giác, tỉnh Biên Hòa, nhập thất, rồi viên tịch.

– Thiền sư Tiên Huệ – Tịnh Nhãn (?-1843) được cử giữ chức Tăng cang chùa Thiên Mụ trên đồi Hà Khê, huyện Hương Trà, phủ Phú Xuân, Huế (1823-1825).

– Ngài Trạch Quang Hầu và một số quan lại cúng dường tiền trùng tu xây dựng quy mô thảo am Viên Thông dưới chân núi Ngự Bình, xã Thủy An, huyện Hương Thủy, Huế (do Tổ sư Thiệt Diệu – Liễu Quán khai sơn cuối thế kỷ XVII) và đổi tên thành Hưng Phước tự (LSTTTPLTCT).

– Thiền sư Vua Minh Mạng xuống chiếu triệu Thiền sư Tế Chánh – Bổn Giác (1761-1851) về Kinh đô Phú Xuân, sung chức Tăng cang chùa Thiên Mụ (Huế).

– Thiền sư Giác Lĩnh – Hiển Thông, thuộc Thiền phái Tào Động, đời thứ 42, hoằng hóa ở chùa Bích Động (Ninh Bình), thị tịch.

This entry was posted in . Bookmark the permalink.