Năm 1914

Năm 1914 (Giáp Dần – PL.2458), đời vua Duy Tân (Vĩnh San, 1907-1916)

– Ngày 29 tháng Giêng năm Giáp Dần, Hòa thượng Minh Khiêm – Hoằng Ân (1850-1914) thế danh Nguyễn Văn Khiêm, húy Minh Khiêm, hiệu Diệu Nghĩa,  sinh tại làng Bà Điểm, tỉnh Gia Định, thuộc Tông Lâm Tế, đời thứ 38, nguyên trụ trì chùa Giác Lâm (Gia Định), viên tịch, thọ 65 tuổi.

– Ngày 05 tháng 2 năm Giáp Dần, Thiền sư Thanh Minh – Huệ Châu (1853-1914) hiệu Pháp Minh, thuộc Tông Lâm Tế, đời thứ 41, trụ trì chùa Hội Phước (Khánh Hòa) viên tịch, thọ 62 tuổi.

– Ngày 11 tháng 2 năm Giáp Dần, Hòa thượng Ấn Bính – Phổ Bảo (1865-1914) thế danh Đinh Văn Sửu, pháp danh Ấn Bính, tự Tổ Thuận, hiệu Phổ Bảo, sinh tại xã Long Phước, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, thuộc thiền phái Lâm Tế – Chúc Thánh, đời thứ 39, trụ trì Tổ đình Chúc Thánh (Quảng Nam) thị tịch, hưởng dương 50 tuổi, 25 hạ lạp.

– Ngày 12 tháng 7 năm Giáp Dần, Hòa thượng Như Hậu – Thới Lai (1851-1914), thuộc thiền phái Lâm Tế, đời thứ 39, khai sơn trụ trì chùa An Ninh (Dĩ An – Bình Dương), viên tịch, thọ 64 tuổi.

– Ngày 07 tháng 9 năm Giáp Dần, Hòa thượng Như Bảo (1847-1914), thuộc thiền phái Lâm Tế, đời thứ 39, Tổ khai sơn chùa An Ninh (Dĩ An – Bình Dương), viên tịch, thọ 68 tuổi.

Ngày 05 tháng 11 năm Giáp Dần, Hòa thượng Chơn Tấn – Quang Thắng (1822-1914), thuộc thiền phái Lâm Tế – Chúc Thánh, đời thứ 40, trụ trì chùa Thiên Đức (Bình Định), viên tịch, thọ 93 tuổi.

– Ngày 21 tháng 11 năm Ất Mão, Hòa thượng Đạt Pháp – Huệ Tánh (1849-1914), thế danh Nguyễn Văn Vạn, húy Đạt Pháp,  thuộc thiền phái Lâm Tế – Chánh Tông, đời thứ 38, Tổ sáng lập chùa Khải Phước (Tân Trụ, Long An), viên tịch, thọ 66 tuổi.

– Ngày 13 tháng Chạp năm Quý Sửu, Hòa thượng Hải Chấn – Chánh Ký (1844-1914) trụ trì chùa Khánh Long (Khánh Hòa) viên tịch, thọ 71 tuổi.

– Ngài Huệ Pháp (1891-1946) sau 10 năm vân du hóa độ, từ Cao Miên trở về nước. Ngài tìm đến chùa Định Long trên núi Sam (Châu Đốc), bái kiến Bổn sư là Tổ Như Tâm, nhân đó Tổ chính thức phú pháp cho ngài nối dòng Lâm Tế Gia Phổ, đời thứ 40, ban pháp danh Huệ Pháp, húy Hồng Phó, rồi cử làm Tọa chủ chùa Định Long.

– Thiền sư Như Hào – Thiên Quang kế thế trụ trì chùa Long Thạnh nay ở số 1756, tỉnh lộ 10, phường Tân Tạo, quận Bình Tân, Tp. HCM.

– Thiền sư Chơn Chứng – Đạo Tâm (1881-1962) được Hòa thượng Ấn Bổn – Vĩnh Gia (1840-1918) ban cho Pháp quyển (Điệp phú pháp, ngày 12 – 4 – Giáp Dần) và hiệu là  Đại sư Thiện Quả, với kệ phó pháp :

“Pháp pháp vốn là pháp,

Pháp pháp trong lòng ngươi,

Tính cây gốc có lửa,

Tham cứu cho thấu kỷ.”

Cũng năm này, Thiền sư kế thế trụ trì chùa Chúc Thánh ở làng Thanh Hà, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn (nay là phường Tân An, Tp. Hội An, tỉnh Quảng Nam) (VHPG-158).

– Thiền sư Ngộ Tánh – Phước Huệ (1875-1963) trùng kiến chùa Hải Đức trên núi Trại Thủy, số 51, đường Hải Đức, Tp. Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa (NCTPGOH).

– Hòa thượng Hải Ngoạn – Tường Thoại (?-1914), thuộc thiền phái Lâm Tế – Liễu Quán, đời thứ 40, trụ trì chùa Khánh An (Phan Thiết), viên tịch.

– Chùa Giác Viên thuộc làng Phú Thọ, hạt Chợ Lớn, tỉnh Gia Định khai Trường Kỳ giới đàn, Hòa thượng Như Ph ng – Hoằng Nghĩa được cung thỉnh làm Hòa thượng Đàn đầu.

– Chùa Phước Lâm thuộc làng Phú Nhuận Đông, huyện Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho khai giới đàn, Hòa thượng Tâm Huy – Khánh Huy (?-1934) được cung thỉnh làm Hòa thượng Đàn đầu. Cũng năm này, Tổ đình Phước Lâm khai Chúc thọ giới đàn, Hòa thượng Khánh Đức được cung thỉnh làm Hòa thượng Đàn đầu, Hòa thượng Khánh Huy làm Yết Ma, Hòa thượng Khánh Tường làm Giáo thọ (BNSGĐTVN ).

– Thiền sư Trừng Hương – Tịnh Hạnh (1889-1933) được Hòa thượng bổn sư Thanh Thái – Phước Chỉ ban kệ phú pháp :  “Nối truyền giáo pháp đạo tâm kiên, Ghi khắc lời này dạ phải chuyên.

Một điểm chân như ngời pháp tính,

Nước trong châu ngọc hiện y nguyên” (CTTĐPGTH).

This entry was posted in . Bookmark the permalink.