Năm 1939 (Kỷ Mão – PL.2483), đời vua Bảo Đại (Vĩnh Thụy, 1926-1945).
– Ngày 16 tháng 1 (nhằm ngày 26 – 12 – Mậu Dần), Hòa thượng Chơn Hương – Thiện Quang (1862-1939) thế danh Phạm Huyền Túc, pháp danh Chơn Hương, hiệu Thiện Quang, sinh tại huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên, thuộc thiền phái Lâm Tế – Chúc Thánh, đời thứ 40, trụ trì chùa Linh Sơn (Vạn Ninh, Khánh Hòa) viên tịch, thọ 77 tuổi.
– Ngày 22 tháng Giêng năm Kỷ Mão, Thượng tọa Như Tiến – Quảng Hưng (1893-1946) được cung thỉnh làm Chánh chủ kỳ đại giới đàn chùa Linh Sơn Trường Thọ tại huyện Hàm Tân, tỉnh Bình Thuận.
– Ngày 07 tháng 2 năm Kỷ Mão, Hòa thượng Hoằng Đạo (?-1939), thế danh Ngô Văn Thiên, thuộc thiền phái Lâm Tế – Gia Phổ, đời thứ 39, trụ trì Phù Cừ Am Tự (Hà Tiên, Kiên Giang), viên tịch, thọ 70 tuổi.
– Ngày 16 tháng 3 năm Kỷ Mão, chùa Kim Tiên tại ấp Bình An, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên – Huế, được ban “Sắc Tứ Kim Tiên Tự”.
– Ngày 15 tháng 6 (nhằm ngày 27 – 4 – Kỷ Mão), Thiền sư Phổ Trinh – Từ Minh (1866-1939) thế danh Nguyễn Ngọc Tảo, pháp danh Phổ Trinh, hoằng hóa ở chùa Mai Xá (Nam Sang) và Hàn Mặc (Hà Nam), viên tịch, thọ 73 tuổi.
– Chiều ngày 01 tháng 7 (nhằm ngày 15 – 5 – Kỷ Mão), Ban Thiền học Hội Phật giáo Bắc Kỳ làm lễ khánh thành Thư viện chùa Quán Sứ, Hà Nội, với sự tham dự của các học giả trí thức, các hội viên và Thiền sư Trí Hải (1906-1979). Thư viện đặt ở ph ng bên tiền đường, lấy tên là Đại Phương Thư Viện. Tổng số sách gần 1000 bộ, thư viện mở cửa phục vụ 3 buổi sáng, chiều, tối.
– Ngày 15 tháng 5 năm Kỷ Mão, Thiền sư Trừng Chơn – Thiện Chánh (1884-1939) thuộc Tông Lâm Tế – Liễu Quán, đời thứ 42, trụ trì chùa Thiên Phước (Thủ Đức, Gia Định), thị tịch, trụ thế 55 năm.
– Ngày 19 tháng 5 năm Kỷ Mão, Hòa thượng Thanh Trí – Tuệ Giác (1858-1939) thế danh Trương Văn Luận, húy Thanh Trí, tự Hải Luận, hiệu Tuệ Giác, nguyên quán xã Trà Bình, tổng Bình Trung, huyện Bình Sơn, phủ Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi, thuộc thiền phái Lâm Tế – Liễu Quán, đời thứ 41, trụ trì chùa Quảng Tế (Hương Thủy, Huế) viên tịch, thọ 82 tuổi, 60 hạ lạp.
– Ngày 22 tháng 6 năm Kỷ Mão, Hòa thượng An Lạc – Minh Đàng (1874-1939) thế danh Lê Ngọc Xuyên, pháp danh Kiểu Thuận, pháp hiệu Tâm Liễu, sinh tại tổng Thanh Phong, làng Mỹ Phong, Mỹ Tho, thuộc Tông Lâm Tế, đời thứ 40, trụ trì chùa Vĩnh Tràng (Mỹ Tho), viên tịch, thọ 65 tuổi, 37 hạ lạp.
– Ngày 26 tháng 8 năm Kỷ Mão, Hòa thượng Như Cao – Từ Sơn (1896-1939), thuộc thiền phái Lâm Tế – Chúc Thánh, đời thứ 41, trụ trì chùa Phước Hưng (Thủ Dầu Một, Bình Dương), viên tịch, trụ thế 57 năm.
– Ngày 16 tháng 12 năm Kỷ Mão, Hòa thượng Thanh Thái – Huệ Minh (1861-1939) họ Nguyễn, húy Thanh Thái, tự Chánh Sắc, người Giạ Lê Thượng, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên, thuộc thiền phái Lâm Tế – Liễu Quán, đời thứ 41, trụ trì chùa Từ Hiếu (Thuận Hóa – Huế) viên tịch, thọ 79 tuổi, 45 hạ lạp.
– Đại đức Thị Phước – Huệ Phú (1915-1946) kế thế trụ trì chùa Phước Hưng nay tại xã Tân An, thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.
– Thượng tọa Tâm Hương – Mật Hiển (1907-1992) được Sơn môn và Bộ Lễ cung cử ngài giữ chức trụ trì Thánh Duyên Quốc Tự tại núi Túy Vân, huyện Phú Lộc-Huế.
– Thượng tọa Hồng Khê – Hoằng Khai (1883-1945) được ông cả Huy thỉnh về trụ trì chùa Thiên Phước ở Tân Hương, nay tại ấp Cầu, xã Khánh Hậu, thị xã Tân An, tỉnh Long An.
– Hòa thượng Như Đắc – Từ Nhẫn (1899-1950) được thỉnh làm Chứng minh kiêm Trị sự Hòa thượng tại giới đàn chùa Phước Chỉ ở Trảng Bàng.
– Hòa thượng Nguyên Đồ – Quảng Ân (1891-1974) được cung thỉnh làm Hòa thượng Đàn đầu truyền giới cho trường Kỳ chùa Sắc tứ Long Hội nay tại xã Tân Hòa Thành, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang.
– Đại đức Thích Trí Đức (1915-1999) trùng tu chùa Long Phước nay thuộc xã Hội An Đông, tỉnh Đồng Tháp và trụ trì chùa này.
– Thượng tọa Chơn Miên – Trí Hưng (1908-1986) được triều đình phong chức Tăng cang, ban sắc tứ biểu ngạch chùa Từ Lâm do ngài kiến tạo. Cũng năm này, ngài được cử làm trụ trì chùa Sắc tứ Thạch Sơn ở Quảng Ngãi.
– Đại đức Chơn Tích – Huệ Hải (1893-1953) kế thế trụ trì Tổ đình Quang Lộc ở thôn Phước Long, xã Tư H a, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi.
– Hòa thượng Thích Trí Hải (1876-1950) được mời làm Giảng sư tại Phật học đường Long Khánh ở Bình Định.
– Tổ đình Phước Sơn tại xã Xuân Sơn Bắc, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên, được triều đình ban biển ngạch Sắc tứ. Lúc bấy giờ, Thiền sư Như Đắc – Thiền Phương (1879-1949) trụ trì Tổ đình này.
– Thiền sư Chơn Công – Viên Giác (1898-1952) kế thế trụ trì chùa Linh Sơn tại thôn Hiền Lương, xã Vạn Lương, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa.
– Chùa Thiên Hưng ở Phan Rang, Ninh Thuận, do Thiền sư Đạo Thông – Trí Thắng (1891-1975) sáng lập (1927), được triều đình ban biển ngạch Sắc tứ.
– Thiền sư Như Điền – Huệ Chấn (1886-1955) được Bộ lễ Nam triều đình Sắc phong Tăng cang.
– Hải Ấn Ni tự tại làng Tân Sơn Nhất, tỉnh Gia Định, được đình Huế ban Sắc tứ.
– Sư cô Hồng Lầu – Diệu Tấn (1910-1947) được mời về trụ trì chùa Kim Sơn tại Sài Gòn, do bà Năm Chanh hiến cúng.
– Sư cô Trừng Hảo – Diệu Không (1905-1997) cùng sư cô Diệu Tịnh mở trường gia giáo tại chùa Bà Ba Xoàn (chùa Tân H a) ở Cái Tàu Hạ, tỉnh Sa – Đéc.
– Thiền sư Nguyên Phổ – Vĩnh Thọ (1892-1974) trùng tu chùa Linh Thắng (nay tọa lạc đường Triệu Quang Phục, phường Lạc Đạo, TP. Phan Thiết).
– Hòa thượng Nguyên Đồ – Quảng Ân (1891-1974) được cung thỉnh làm Hòa thượng Đàn đầu, Hòa thượng Hoằng Thông, Hòa thượng Thiện Hương làm Giới sư cho Trường Kỳ giới đàn chùa Long Hội thuộc làng Tân Hòa Thành, huyện Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho.
– Hòa thượng Thiện Hương được cung thỉnh làm Hòa thượng Đàn đầu cho Trường Kỳ giới đàn chùa Huệ Nghiêm thuộc huyện Thủ Đức, tỉnh Gia Định.
– Hòa thượng Ngộ Tánh – Phước Huệ (1875-1963) được cung thỉnh làm Hòa thượng Đàn đầu, Hòa thượng Tôn Thắng làm Giới sư cho giới đàn chùa Liên Trì thuộc tỉnh Khánh Hòa. Cũng năm này, Hòa thượng Phước Huệ được thỉnh làm Hòa thượng Đàn đầu cho giới đàn chùa Hải Đức tại TP. Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa.
– Sắc tứ Phước Điền tự được Hòa thượng Hưng Thạnh (1894-1964) đại trùng tu, khánh thành vào năm 1941. Sau đó, vào ngày 07 – 3 – Kỷ Hợi (1959), chùa đúc đại hồng chung nặng 570 kg.
– Thiền sư Trừng Diên – Hưng Phước (1884-1974) khai sơn xây dựng chùa Từ Hóa tại làng An Cựu, thôn Tứ Tây, tỉnh Thừa Thiên – Huế.
Chùa Thiên Hưng tại TP. Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận, được vua Bảo Đại ban biển ngạch sắc tứ. Chùa này do Thiền sư Chơn Cảnh – Trí Thắng (1891-1975) trụ trì.
– Hòa thượng Thích Như Đạt (?-1939), thuộc thiền phái Lâm Tế – Gia Phổ, đời thứ 39, trụ trì chùa Linh Nguyên (Đức Hòa – Long An), viên tịch.
– Đại đức Huệ Hương – Linh Thắng (1906-1968) được thầy Trung cúng dường thảo am để tu hành. Ngài liền khai sơn xây cất và đặt tên là chùa Thiên Long nay thuộc khu vực 6, phường Trần Quang Diệu, TP. Quy Nhơn, tỉnh Bình Định.