Tổ Thứ 12 – Bồ Tát Mã Minh

Personal Information

Danh Tánh
Tổ Thứ 12 - Bồ Tát Mã Minh
Gender ♂️ Male

Hành Trạng

Additional Info

(馬 鳴 ; S: aśvaghoṣa, Tây Tạng: Rta-dbyans). Tổ thứ mười hai Thiền tông Ấn Độ.
Cũng là thi nhân Phật giáo, người ở thành Ta Chi Đa, nước Xá Vệ, trung Ấn Độ, còn có tên là Công Thắng, vì Ngài đã tạo những công đức vô tác rất thù thắng nên đặt tên này. Nhà Đại Thừa Luận Sư ra đời 600 năm sau khi Phật nhập tịch. Là một trong các vị chủ trì cuộc Đại Hội Kiết tập kinh điển lần thứ tư tại Kashmia.
Sống vào khoảng thế kỉ thứ I đến thế kỉ thứ II Tây lịch, Tổ phó pháp thứ 12 của Thiền Tông Ấn Độ, có quan hệ rất sâu đậm với vua Ca Nị Sắc Ca1Kaniska - khoảng thế kỉ đầu TL, vua đời thứ ba của vương triều Quí Sương - Kusana, nước Nhục Chi – cũng đọc là Nguyệt Thị – kế thế vua A Dục, cai trị toàn vùng Bắc Ấn-độcủa Vương Triều Quí Sương
Ngài xuất thân từ dòng dõi Bà La Môn, trong 1 gia đình bác học truyền thống, hiệu Mã Minh cũng có hiệu Công Thắng. Vì khi Ngài sanh ra, các con ngựa đều ré lên, nên gọi là Mã Minh. lại cũng có thuyết nói, mỗi khi Ngài thuyết pháp, các con ngựa trong chuồng ở gần đều lặng lẽ lóng nghe, khi thuyết xong chúng lại hý vang, nên gọi Ngài là Mã Minh. Lúc chưa xuất gia, Ngài là một biện sĩ lỗi lạc, danh tiếng đồn đãi vang cả quốc nội và quốc ngoại.
Sau khi được Tổ Phú Na Dạ Xa độ cho xuất gia và truyền tâm ấn, Ngài lại nổi tiếng là một nhà thuyết pháp tài tình. Bao nhiêu tà thuyết ngoại đạo đều bị Ngài bẻ dẹp. Chính Ngài là người thắp sáng ngọn đuốc Đại Thừa ở đầu thế kỷ thứ sáu sau Phật Niết Bàn. Ngài đi giáo hóa đến nước Hoa Thị nơi đây ngọn đuốc pháp của Ngài càng sáng rực hơn.
Mới đầu, ngài tu tập theo pháp ngoại đạo, sau, trong 1 cuộc tranh luận với Hiếp Tôn Giả, do có chỗ cảm ngộ mà qui y Phật Giáo. Ngài học hết Tam Tạng, thông suốt nội ngoại điển, là người tiên phong trong nền văn học tiếng Phạm cổ điển, mở đầu nền văn học Văn thể (Phạm: Kàvya) đẹp đẽ, để lại danh tiếng bất hủ trong lịch sử văn học tiếng Phạm.
Thọ pháp nơi Tôn giả Dạ Xa, sau Ngài chuyển diệu pháp luân ở nước Hoa Thị. Trong hội chúng nghe pháp chợt thấy ông lão ngồi phía trước ngã lăn ra đất. Sư bảo chúng:
- Đây chẳng phải bọn tầm thường, sẽ có chuyện lạ.
Sư nói xong ông già biến mất. Giây lát từ dưới đất vọt lên một người tồn màu vàng, rồi lại hóa thành người con gái đưa tay phải lên chỉ Sư và nói kệ:
Khể thủ trưởng lão tôn
Đương thọ Như Lai ký
Kim ư thử địa thướng
Tuyên thông đệ nhất nghĩa
Dịch:
Cúi lạy đấng trưởng lão
Đang nhận Phật thọ ký
Nay ở trong xứ này
Nói thông đệ nhất nghĩa.
Nói kệ xong, trong nháy mắt người đó biến mất.
Sư nói:
- Sẽ có ma (ngoại đạo) đến đấu sức với ta.
Bỗng chốc mưa gió ầm ầm kéo đến khiến trời đất mù mịt. Sư nói:
- Đó là điềm báo ma (ngoại đạo) đến, ta sẽ trừ chúng.
Ngài chỉ tay lên không trung, hiện một con rồng vàng thật lớn phấn phát oai thần làm rung động núi rừng. Sư ngồi trang nghiêm trên tòa, ma sự dần dần tan biến. Qua bảy ngày có một con sâu nhỏ, cỡ con tiêu minh (loài sâu), dấu mình dưới tòa của Ngài. Ngài dùng tay nắm con sâu đưa lên cho chúng xem và nói:
- Con sâu này do ma (ngoại đạo) biến hóa ra, ẩn núp ở đây để nghe trộm pháp ta.
Nói xong Ngài ném con sâu ra, bảo “Đi ngay”. Nhưng con sâu vẫn nằm im.
Sư bảo nó:
- Ngươi chỉ cần quy y tam bảo thì được thần thông.
Sau đó ma sâu hiện trở lại nguyên hình làm lễ sám hối. Sư hỏi:
- Ngươi tên gì nhỉ, quyến thuộc bao nhiêu?
Đáp:
- Tôi tên là Ca Tỳ Ma La, có đến ba ngàn quyến thuộc.
Sư hỏi:
- Dụng hết thần lực thì ngươi biến hóa thế nào?
Đáp:
- Tôi hóa ra biển lớn rất dễ dàng.
Sư hỏi:
- Ngươi hóa tánh hải (biển) được chăng?
Hỏi:
- Tánh hải nghĩa là gì tôi chưa từng biết.
Sư bèn nói cho nghe về tánh hải:
- Sơn hà đại địa đều nương theo đó mà thành lập, tam muội lục thông (bản cựu ghi là “Lục thần thông”, căn cứ Chánh Tông Ký bỏ đi chữ thần) từ đó phát sanh.
Ca Tỳ Ma La nghe nói liền phát tín tâm, cùng 3000 đồ chúng xin xuất gia. Sư bèn gọi 500 vị La-hán truyền giới cụ túc cho họ. Rồi bảo Ca Tỳ Ma La: “Đại pháp nhãn tạng của Như Lai nay trao cho ông”.
Hãy nghe ta nói kệ:
Ẩn hiển tức bổn pháp
Minh ám nguyên bất nhị
Kim phó ngộ liễu pháp
Phi thủ diệc phi ly
Dịch:
Ẩn hiện tức bổn pháp
Sáng tối vốn không hai
Nay trao pháp ngộ xong
Chẳng lấy cũng chẳng bỏ
Truyền pháp rồi, Mã Minh Đại sĩ liền nhập long phấn tấn tam muội, đứng thẳng người trong không trung giống như mặt trời tròn hình bánh xe, sau đó hiện tướng nhập diệt. Tứ chúng đem chơn thể cất trong khám rồng.
Nhằm năm Hiển Vương thứ 37, năm giáp ngọ (năm 94 công nguyên) (Đúng ra là năm Hiển Vương thứ 42).
Ngoài văn tài, ngài còn có đức hạnh cao siêu, nên được tôn xưng là Bồ Tát. Hành trạng của ngài được ghi chép rõ ràng trong “Mã Minh Bồ Tát Truyện” do ngài Cưu Ma La Thập dịch và được thu vào Đại Chính Tạng tập 50.
Ngài Mã Minh chính là người đã có công lớn từ việc chuyển tư tưởng Phật giáo Tiểu Thừa sang Đại Thừa. Mã Minh không những có một địa vị đặc biệt trong lịch sử tư tưởng Phật giáo, mà cả trong toàn bộ truyền thống thi ca tiếng Phạn nữa. Cống hiến lớn nhất của Mã Minh cho lịch sử tư tưởng Phật giáo là sự nhấn mạnh niềm tin vào Đức Phật của ông. Mặc dù giáo lý Đại Thừa đã có trước thời ông từ hai ba thế kỷ về trước, nhưng các giáo lý nầy đã tìm được sự thể hiện quan trọng đầu tiên trong các tác phẩm của ông, dù rằng ông thuộc phái Nhất Thiết Hữu Bộ (Sarvastivada school). Tác phẩm Phật Sở Hành Tán (Buddha Carita) miêu tả cuộc đời Đức Phật bằng một bút pháp mộc mạc và trang trọng, dù được viết rất dè dặt. Nguyên bản của bài thơ có 28 đoạn, theo Nghĩa Tịnh qua bản dịch chữ Hán vào thế kỷ thứ bảy. Bản dịch Tây Tạng cũng có một số đoạn tương tự như thế. Do đó bản gốc tiếng Phạn hẳn là phải có 28 đoạn. Tuy nhiên, ngày nay chỉ có 17 đoạn tiếng Phạn còn được lưu lại, nhìn chung thì chỉ có 13 đoạn đầu được xem là đích thực của ông. Nghĩa Tịnh nói: “Từ thời của ngài Mã Minh đến nay, bài thơ tuyệt vời nầy được đọc và ngâm rộng rãi khắp nơi trong năm miền Ấn Độ và trong các nước vùng Nam Hải.” Trong tập thi sử nầy, Mã Minh không chỉ thuật lại cho chúng ta cuộc đời Đức Phật cùng sự thuyết pháp của Ngài, mà còn chứng tỏ một kiến thức bách khoa của Ngài về các truyền thuyết thần thoại Ấn Độ, về các triết học trước Phật giáo, nhất là triết học Sankhya. Còn thi phẩm Saundaranandakavya kể lại chuyện truyền giới cho Nan Đà, người anh em cùng cha khác mẹ với Phật. Ngoài hai thi phẩm quan trọng nầy, Mã Minh còn viết ba vở tuồng Phật giáo, đã được H. Luders tìm thấy ở Turfan, Trung Á vào đầu thế kỷ thứ 20. Trong các vở tuồng đó, có tuồng Sariputraprakarana với chín hồi là quan trọng nhất. Đây là một tác phẩm kịch nghệ hiện còn trong văn học Sanskrit. Ngoài ra, Mã Minh còn viết một thi phẩm trữ tình Gandistotra-gatha gồm 29 bài thơ theo vận luật sragdhara. E. H. Johnston nghi ngờ không phải là của Mã Minh, nhưng Winternitz nhận xét: “Đây là một bài thơ hay, xứng đáng là của Mã Minh cả về hình thức lẫn nội dung.” Ngoài ra, theo truyền thống Phật giáo, khi mà vở kịch Lại Tra Hòa La, một vở kịch Phật giáo viết về một vị Tăng mà đức Phật đề cập trong kinh A Hàm, xuất gia theo Phật, sau đó trở về thuyết pháp cứu độ mẹ cha. Khi vở kịch này được diễn thì ngay lập tức có 500 vị hoàng tử từ bỏ cuộc sống thế tục làm Tăng sĩ Phật giáo. Ông hoằng hóa Phật pháp trong vùng Bắc Ấn Độ dưới sự bảo trợ của vua Ca Nị Sắc Ca. Ông còn viết những bộ hùng ca như bộ Phật Sở Hành Tán Kinh và Nan Đà Sở Hành Tập. Bộ Phật Sở Hành Tán Kinh nói về cuộc đời đức Phật và được xem như là một đại tác phẩm trong văn chương Ấn Độ. Nan Đà Sở Hành Tập là câu chuyện về Nan Đà, một người em họ của đức Phật, người đã cắt đứt mối quan hệ với người vợ thân yêu kiều diễm để trở thành một Tăng sĩ. Bởi vậy ngài cũng được coi là một đại thi hào Phật giáo.
Phật Sở Hành Tán (Buddhacarita) bằng thể thơ, được ngài Pháp Hộ Đàm Ma La Sát (Dharmaraksa) dịch ra chữ Hán năm 414-421 (có bản dịch tiếng Anh của Beal); Luận Đại Thừa Khởi Tín (Mahayana sraddhotpada sastra) là một tác phẩm nổi danh của ngài, rất được mọi người biết đến; trong đó ngài nêu lên các giáo lí trọng yếu, cũng như chỉ bày đường lối tu tập theo giáo pháp đại thừa, mà phần cuối có đoạn khuyên người tu nên chuyên tâm niệm Phật và cầu vãng sinh về cõi Tịnh-độ. Cuốn này có hai bản dịch tiếng Hán, do Paramartha (Chân Đế) dịch năm 554 và do ngài Thực Xoa Nan Đà (Siksananda) dịch năm 695-700. Lại có bản dịch tiếng Anh do Teidaro Suzuki năm 1900.
Mã Minh được xem là một trong bốn vị minh triết Phật giáo, được xếp vào “bốn mặt trời chiếu rọi thế giới”. Ba vị kia là Thánh Thiên, Long Thụ và Cưu Ma La Đa (s: kumāralāta), một Ðại sư của Kinh lượng bộ.
Các tác phẩm được liệt kê dưới tên Mã Minh:
01. Ðại thừa khởi tín luận (mahāyānaśraddhotpāda-śāstra);
02. Phật sở hạnh tán (buddhacarita-kāvya);
03. Ðại tông địa huyền văn bản luận (mahāyānabhūmiguhyavācāmūla-śāstra);
04. Ðại trang nghiêm kinh luận (mahālaṅkāra-sūtra-śāstra);
05. Ni-kiền tử vấn vô ngã nghĩa kinh;
06. Thập bất thiện nghiệp đạo kinh (daśaduṣṭakarmamārga-sūtra);
07. Sự sư pháp ngũ thập tụng;
08. Lục đạo luân hồi kinh;
09. Hi khúc Xá-lị tử (śāriputraprakaraṇa);
10. Tôn-già-lợi Nan-đà (saudarananda-kāvya).
Về niên đại của ngài Mã Minh, có nhiều thuyết nói khác nhau (như sau ngày Phật diệt độ khoảng 300 năm, 400 năm, hoặc 500 năm), không thể xác định rõ ràng. Lại nữa, theo luận Thích Ma Ha Diễn ghi chép, từ thời Phật tại thế cho đến 800 năm sau khi Ngài nhập diệt, có tất cả 6 ngài Mã Minh ra đời (2 ngài cùng thời đại với đức Phật; 1 ngài vào khoảng 100 năm PL; 1 ngài vào khoảng 300 năm PL, 1 ngài vào khoảng 600 năm PL; và 1 ngài vào khoảng 800 năm PL).
Tác giả Shoma Gyokei của sách Ấn Độ Phật Giáo Sử thì xác quyết: “Ngài Mã Minh luận chủ luận Khởi Tín là tác giả tư tưởng thuần Đại thừa thì xuất hiện ở thời đại sau, riêng về ngài Mã Minh kiêm học cả Tiểu thừa và Đại thừa thì xuất thế ở khoảng thời đại giữa tuổi vãn niên của vua Kaniska, cho tới khoảng ngài Long Thọ xuất thế, tức là khoảng 700 năm sau khi Phật diệt độ, hậu bán thế kỷ thứ II Tây lịch.” (Trích trong sách Lược Sử Phật Giáo Ấn Độ của Hòa Thượng Thích Thanh Kiểm, Thành Hội Phật Giáo TP HCM ấn hành, năm 1995, tr. 142.)
Trong sách vừa dẫn trên, sau khi nêu ra các tác phẩm của ngài Mã Minh hiện còn lưu truyền, hòa thượng Thích Thanh Kiểm nhận xét:
“Căn cứ vào nội dung giáo nghĩa của các bộ kể trên thì giáo nghĩa của luận Khởi Tín thuộc giáo lý thuần túy Đại thừa, còn các bộ khác hoặc thuộc giáo nghĩa thuần Tiểu thừa, hoặc thuộc giáo nghĩa kiêm cả Tiểu thừa và Đại thừa. Vì vậy, Kyono Tetsu, tác giả cuốn Ấn Độ Phật Giáo Sử Cương (trang 179) đã kết luận: “Ngài Mã Minh thuộc tư tưởng Tiểu thừa thì xuất hiện ở khoảng trước hoặc sau thế kỷ thứ I, còn ngài Mã Minh thuộc tư tưởng Đại thừa thì hoàn toàn là người xuất hiện ở thế kỷ sau”. Như vậy tác giả cuốn sử kể trên nhận có hai ngài Mã Minh ra đời. Nhưng suy luận theo tác phẩm thì có thể chỉ là một ngài Mã Minh, vì lúc đầu ngài tin theo Tiểu thừa, nên trước tác của ngài thuộc về Tiểu thừa giáo, sau ngài chuyển hướng theo Đại thừa nên trước tác của ngài cũng là tư tưởng Đại thừa. Tức là, ngài là bậc kiêm học cả Tiểu thừa và Đại thừa”. (Hòa Thượng Thích Thanh Kiểm, sách đã dẫn trên, tr. 145.)
Ngoài ra, theo Phật Giáo Tây Tạng thì ngài “Ma Trất Lí Chế Đa” (Phạm: Màtfceỉa) nói trong Đa La Na Tha Phật Giáo Sử cũng là Bồ Tát Mã Minh. [X. Kinh Tạp Bảo Tạng Q.7; Mã Minh Bồ Tát Truyện; Phó Pháp Tạng Nhân Duyên Truyện Q.5].
Kệ truyền pháp:
Ẩn hiển tức bổn pháp
Minh ám nguyên bất nhị
Kim phó ngộ liễu pháp
Phi thủ diệc phi khí.
Dịch :
Ẩn hiện vốn pháp này
Sáng tối nguyên không hai
Nay truyền pháp liểu ngộ
Không lấy cũng chẳng bỏ .

Contact Information

Phone
Array
Address Array
This entry was posted in . Bookmark the permalink.