Tổ Thứ 17 – Tôn Giả Tăng Già Nan Đề

Personal Information

Danh Tánh
Tổ Thứ 17 - Tôn Giả Tăng Già Nan Đề
Gender ♂️ Male

Hành Trạng

Additional Info

s: Sañghānandi, 僧伽難提. Phạm: Saôghanandi. Cũng gọi Tăng Già Na Đề, Tăng Khư Nan Đề. Tổ truyền pháp thứ mười bảy của Thiền Tông Ấn Độ.
Theo Phật Tổ Truyền Thừa Ký, ngài là một trong những vị hoàng tử con vua Bảo Trang Nghiêm ở thành Thất La Phiệt miền Bắc Ấn Độ vào khoảng giữa thế kỷ thứ VII.
Cứ theo Cảnh Đức Truyền Đăng Lục quyển 2 thì lúc mới sinh ra ngài đã biết nói, thường khen ngợi Phật Sự. Năm 7 tuổi, chán thú vui thế gian, ngài nói kệ xin cha mẹ cho xuất gia:
Khể thủ đại từ phụ
Hòa nam cốt huyết mẫu
Ngã kim dục xuất gia
Hạnh nguyện ai mẫn cố.
Dịch:
Cúi lạy đấng từ phụ
Kính lễ mẹ tình thâm
Nay con muốn xuất gia
Mong được thương xót cho.
Cha mẹ quyết khuyên ngăn con, ngài trọn ngày không ăn khiến cho cha mẹ phải nhượng bộ, cho tạm xuất gia hiệu Tăng Già Nan Đề, tu ở hồng cung. Vua cho mời Sa môn Thiền Lợi Đa làm thầy dạy Ngài, trải 19 năm tu tại gia Ngài chưa từng mỏi mệt. Ngài thường tự nghĩ: “Thân ta ở trong cung vua, sao gọi là xuất gia?”.
Chợt một buổi chiều trời quang mây tạnh, Ngài gặp một con đường bằng phẳng bất giác bước đi thong thả, được khoảng mười dặm đến một ngọn núi cao, thấy có hang đá bèn vào ngồi thiền trong đó.
Sáng hôm sau vua nghe mất tích thái tử liền đuổi Thiền Lợi Đa ra khỏi nước, cho người tìm kiếm thái tử khắp nơi mà không được. Trải qua mười năm Ngài đã được thọ ký và đắc pháp nơi Tổ La Hầu La Đa. Ngài là bậc có trí tuệ sâu xa, siêng tu hạnh Bồ Tát.
Sau ngài du hóa đến nước Ma đề, chợt có luồng gió mát ập đến, chúng đều cảm thấy thân tâm khoan khối lạ thường mà không biết tại sao thế. Ngài nói:
- Đây là gió do đạo đức cảm nên, sẽ có bậc thánh ra đời nối tiếp đèn Tổ.
Nói xong, ngài dùng thần lực đưa đại chúng du lịch qua các sơn cốc. Chẳng bao lâu đến dưới một ngọn núi, ngài bảo chúng:
- Đỉnh núi này có mây tía phủ như lộng che ở trên, thánh nhân ở đây rồi!
Cùng đại chúng băn khoăn đợi chờ. Chợt thấy một đồng tử từ nhà nghỉ trong núi đi đến trước mặt ngài, tay cầm cái gương tròn. Ngài hỏi:
- Ông tuổi bao nhiêu?
Đáp:
- Trăm tuổi!
Tôn giả hỏi:
- Tuổi ông còn nhỏ, sao nói trăm tuổi?
Đáp:
- Tôi không biết lý lẽ, tôi đúng 100 tuổi.
Tôn giả hỏi:
- Ông có cơ duyên với Phật chăng?
Đáp:
- Phật dạy: “Nếu người sống trăm tuổi, không biết cơ duyên Phật, sao bằng sống một ngày, mà hiểu được rõ ràng?”
Tôn giả hỏi:
- Vật (gương tròn) trong tay ông biểu thị điều gì?
Đồng tử đáp:
Chư Phật đại viên giám
Nội ngoại vô hà ế
Lưỡng nhân đồng đắc kiến
Tâm nhãn giai tương tợ.
Dịch:
Gương tròn lớn chư Phật
Trong ngồi không dấu vết
Hai người cùng thấy được,
Tâm nhãn đều tương tợ1Tâm nhãn: Mắt của tâm hằng có khắp nơi, dùng được thì các tướng có không đều rỗng không. Cha mẹ đồng tử nghe được lời đối đáp của con thì cho con xuất gia. Ngài nắm tay chú bé dẫn về tinh xá, cho thọ giới cụ túc xong và đặt tên là Già Da Xá Đa.
Theo Phó Pháp Tạng Nhân Duyên Truyện quyển 6 thì ngài từng dùng bài kệ (Đại 50, 320 thượng): “Sinh trong dòng Chuyển Luân, chẳng phải Phật La Hán; không thụ thân đời sau, cũng chẳng phải Độc Giác” để xét nghiệm một vị La Hán. Nhưng vị này không hiểu, liền lên cung trời Đâu Suất thỉnh vấn Bồ Tát Di Lặc. Bồ Tát Di Lặc bảo vị La Hán rằng: “Người thế gian đặt cục đất sét lên bàn xoay, nhào nặn thành viên ngói, viên ngói ấy đâu có cùng các Thánh cùng đến đời sau”. Vị La Hán được mở tỏ, liền trở lại Diêm Phù Đề giải nói về việc ấy. Ngài Nan đề nghĩ rằng vị La Hán chắc chắn đã được Bồ Tát Di Lặc chỉ giáo. Từ đó, ngài càng tinh cần, tế độ chúng sinh, sau phó pháp cho ngài Tăng Già Da Xá.
Nhưng theo Cảnh Đức Truyền Đăng Lục quyển 2 thì ngài phó pháp cho ngài Già Da Xá Đa.
Một hôm gió thổi, nghe tiếng kêu của linh đồng treo trên điện Phật, ngài hỏi Sư Xá-đa.
- Linh kêu hay gió kêu?
Sư đáp:
- Chẳng phải linh kêu, chẳng phải gió kêu mà tâm con kêu.
Ngài hỏi:
- Tâm là gì nhỉ?
Sư đáp:
- Tất cả đều vắng lặng.
Ngài nói:
- Lành thay, lành thay! Người nối đạo ta, phi ngươi còn có ai?
Ngài bèn nói kệ trao pháp:
Tâm địa bổn vô sanh
Nhân địa tòng duyên khởi
Duyên chủng bất tương phương
Hoa quả diệc phục nhĩ.
Dịch:
Tâm địa vốn vô sanh
Nhân tâm tùy duyên khởi
Duyên giống chẳng ngại nhau
Hoa quả cũng như thế.
Tôn giả truyền pháp xong, đưa tay phải vin cành cây mà thiên hóa. Đại chúng bàn: Ngài quy tịch dưới tàng cây, có lẽ cây ấy rủ bóng che mát con cháu chăng?. Rồi định đưa tồn thân ngài đến cao nguyên xây tháp thờ, nhưng sức của chúng không nâng nổi mà phải xây tháp tại gốc cây.
Nhằm nhà Tiền Hán Chiêu đế năm thứ 13, năm Đinh Mùi (năm 73 trước công nguyên). [X. Truyền Pháp Chính Tông Kí Q.3; Phật Tổ Thống Kỉ Q.5; Phật Tổ Lịch Đại Thông Tải Q.5].
Kệ truyền pháp:
Tâm địa bổn vô sanh
Nhơn địa tùng duyên khởi
Duyên chủng bất tương phòng
Hoa quả diệc phục nhi.
Dịch :
Đất tâm vốn không sanh
Nhơn đất từ duyên khởi
Duyên giống chẳng ngại nhau
Hoa trái cũng như thế.

Contact Information

Phone
Array
Address Array
This entry was posted in . Bookmark the permalink.