Additional Info
(s: Vasubandhu, 婆修盤頭): âm dịch là Bà Tu Bàn Đâu (婆修盤頭), Bà Tu Bàn Đà (婆修槃陀), Bà Tâu Bàn Đâu (婆藪盤豆), Hoa Tu Bàn Đâu (和修槃頭), Phat Tô Bàn Đô (伐蘇槃度), Phiệt Tô Bạn Đồ (筏蘇畔徒), ý dịch là Thế Thân (世 親), Thiên Thân (天親). Tổ truyền pháp thứ hai mươi mốt của Thiền Tông Ấn Độ.
Theo Bảo Lâm Truyện (寳林傳) 4, Tổ Đường Tập (祖堂集) 2, Cảnh Đức Truyền Đăng Lục (景德傳燈錄) 2, ngài được xem như là vị tổ phú pháp thứ 21 của Ấn Độ. Truyền ký về ngài được ghi lại rõ nhất trong Bảo Lâm Truyện, còn Cảnh Đức Truyền Đăng Lục thì có lược bớt ít nhiều. Theo Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, ngài xuất thân La Duyệt Thành (羅閲城), họ Tỳ Xá Khư (毘舍佉), cha là Quang Cái (光盍), mẹ là Nghiêm Nhất (嚴一). Gia đình ngài tuy giàu có nhưng lại không có con, cho nên song thân hết lòng cầu nguyện tháp Phật để mong có được đứa con. Vào một đêm nọ, mẹ ngài nằm mộng thấy nuốt vào hai viên ngọc sáng và tối, đến khi tỉnh dây thì biết đã mang thai. Trải qua bảy ngày có một vị La Hán tên là Hiền Chúng đến nhà. Quang Cái thiết lễ tiếp, Hiền Chúng ngồi ngay ngắn nhận lễ; khi Nghiêm Nhất bước ra lễ bái, Hiền Chúng tránh lễ không dám nhận và nói:
- Hãy xoay trở lại mà lễ pháp thân đại sĩ đi.
Quang Cái không hiểu được tại sao vậy, rồi cầm một hạt bảo châu quỳ dâng lên Hiền Chúng nhờ xem châu thật hay giả. Hiền Chúng liền nhận lấy châu không chút khách sáo từ tạ.
Quang Cái không chịu nổi, hỏi:
- Tôi là trượng phu (chồng) làm lễ, Ngài chẳng để mắt tới, vợ tôi có đức gì mà Tôn giả kiêng tránh?
Hiền Chúng đáp:
- Tôi nhận lễ dâng châu quý giúp phước cho ông thôi. Vợ ông mang con thánh, ra đời sẽ là mặt trời trí tuệ làm đèn tiếp nối Tổ vị, vì thế tôi kiêng nể chứ đâu phải tôi coi trọng nữ nhân.
Hiền Chúng lại tiếp:
- Vợ ông sắp sanh hai người con trai: Một người tên là Bà Tu Bàn Đầu, người mà ta tôn kính; người thứ hai tên là Sô Ni (Hoa dịch nghĩa dã thước tử – con chim khách). Xưa Đức Như Lai tu đạo trên núi Tuyết, con Sô Ni làm tổ trên đầu Ngài. Phật đã thành đạo con Sô Ni chịu quả báo làm vua nước Na Đề. Phật đã thọ ký cho nó: “Sau khi ta nhập diệt, đến năm trăm năm lần thứ hai ngươi sanh ở thành La Duyệt, nơi nhà Tỳ Xá Khư cùng bào thai với vị thánh. Hiện nay (tâm ngươi) không sáng”.
Một tháng sau quả nhiên bà Nghiêm Nhất sanh hai người con trai. Một vị chính là Bà Tu Bàn Đầu (婆修盤頭). Năm lên 15 tuổi, ngài theo xuất gia với La Hán Quang Độ (光 度), được Bồ Tát Tỳ Bà Ha (毘婆訶) truyền trao giới pháp cho. Trước khi chưa theo hầu hạ Tổ Xà Dạ Đa (s: Gayata, 闍夜多), ngài thường chỉ ăn một ngày một bữa, không nằm, sáu thời lễ Phật, trong sạch không dục cầu, được chúng bạn quy kính. Tổ Xà Dạ Đa muốn độ ngài nên tuyên bố trước chúng rằng: “Ta không cầu đạo, cũng chẳng điên đảo; ta không lễ Phật, cũng chẳng khinh mạn; ta không nằm dài, cũng chẳng lười biếng; ta không ăn một buổi, cũng chẳng ăn nhiều lần; ta không biết đủ, cũng chẳng tham muốn; tâm không cầu mong, ấy gọi là đạo”. Nghe vậy, Bà Tu Bàn Đâu bèn phát khởi trí tuệ vô lậu, sau kế thừa y bát của Xà Dạ Đa, thông hiểu kinh tạng, hóa độ rộng khắp chúng sanh, trở thành vị tổ thứ 21.
Sau khi đắc pháp nơi Tổ Xà Dạ Đa, ngài đi hành hóa đến nước Na Đề (那 提),
Vua nước ấy tên là Thường Tự Tại, có hai người con trai: một người tên Ma Ha La, người kế tên Ma Noa La (s: Manorhita, Manorhata, 摩奴羅).
Vua hỏi ngài:
- Phong thổ thành La Duyệt so với đây là giống hay khác?
Tôn giả đáp;
- Nước kia từng có ba vị Phật ra đời, nay vương quốc của bệ hạ có hai thầy hóa đạo.
Vua hỏi:
- Hai thầy đó là ai?
Tôn giả đáp:
- Phật đã thọ ký năm trăm năm lần thứ hai, sau Phật nhập diệt, có một đại sĩ thần lực xuất gia kế thừa thánh vị. Chính người con thứ của nhà vua, Ma Noa La là một trong hai thầy đó. Tôi tuy đức mỏng dám nhận là một.
Vua nói:
- Nếu đúng như lời Tôn giả nói, tôi sẽ cho đứa con thứ làm sa môn.
Ngài nói:
- Lành thay! Đại vương hay noi theo lời Phật dạy.
Ngài cho Ma Noa La thọ giới cụ túc, rồi nói kệ truyền pháp:
Bào huyễn đồng vô ngại
Như hà bất liễu ngộ?
Đạt pháp tại kỳ trung
Phi kim diệc phi cổ
Dịch:
Bào huyễn hòa vô ngại
Tại sao chẳng liễu ngộ?
Đạt pháp ngay trong huyễn
Chẳng xưa cũng chẳng nay
Ngài trao pháp xong, vọt thân lên không trung cao nửa do tuần, đứng một mình cao chót vót. Tứ chúng ngước xem, kính thỉnh Ngài trở lại tòa. Thân ngài trở về tòa ngồi kiết già tịch. Chúng trà tỳ lượm xá lợi xây tháp thờ.
Nhằm nhà Hậu Hán Thương đế năm thứ 12, năm Đinh Tị (năm 117 công nguyên).
Nhân vật Bà Tu Bàn Đâu nầy với nhân vật Thế Thân vốn được truyền ký trong Bà Tâu Bàn Đâu Pháp Sư Truyện (婆藪盤豆法師傳) cũng như Đại Đường Tây Vức Ký (大唐西域記) 2, 5 là hai nhân vật hoàn toàn khác nhau và truyền ký cũng không giống nhau. Nhân vật Thế Thân sau nầy là tác giả của bộ Câu Xá Luận (s: Abhidharmakośa-bhāṣya, 倶 舍 論), sống vào khoảng thế kỷ thứ 5 ở miền Tây Bắc Ấn Độ.
Kệ truyền pháp:
Bào huyễn đồng vô ngại
Vân hà bất ngộ liễu
Đạt pháp tại kỳ trung
Phi kim diệc phi cổ.
Dịch:
Bọt huyễn đồng không ngại
Tại sao chẳng liễu ngộ
Đạt pháp ngay trong ấy
Chẳng xưa cũng chẳng nay.
|