Additional Info
(s: Siṁhabhikśu, Pàli: Siôha., 師子菩薩, Sư Tử Bồ Đề, Sư Tử Tôn Giả). Tổ truyền pháp thứ hai mươi bốn của Thiền Tông Ấn Độ.
Ngài là người Trung Ấn Độ, xuất thân từ dòng Bà La Môn. Ngài là người đã truyền bá Phật giáo về phía Bắc Ấn Độ
Sau khi được Tổ Hạc Lặc Na truyền pháp cho, ngài đến nước Kế Tân, có người tên Ba-lợi-ca vốn dĩ thực tập thiền quán, môn đồ ông sẵn có năm nhóm: 1. Thiền định, 2. Tri kiến, 3. Chấp tướng, 4. Xả tướng, 5. Tịnh khẩu. Ngài chất vấn và dạy họ, bốn nhóm đều mặc nhiên tâm phục, chỉ có Đạt Ma Đạt là thầy của nhóm thiền định, nghe bốn nhóm kia bị hàng phục thì tức giận mới đến gặp ngài để vấn nạn.
Tôn giả hỏi:
- Nhân giả tập định sao lại đến đây?. Đã đến rồi sao bảo là tập định?
Đáp:
- Tôi tuy đến đây mà tâm cũng không loạn, định tùy người tập chớ đâu phải do nơi chốn?
Tôn giả nói:
- Nhân giả đã đến thì người tập (định) kia cũng đến. Đã không do nơi chốn thì đâu còn người tập mà tùy?
Đáp:
- Vì cái định tập con người, chẳng phải con người tập cái định. Tôi tuy đến đây mà cái định kia vẫn thường tập.
Tôn giả hỏi:
- Người chẳng tập cái định mà cái định tập người. Vậy chính khi ông đến đây thì cái định ấy tập ai?
Đáp:
- Như ngọc minh châu trong sạch trong ngồi không vết che, nếu cái định thông đạt ắt phải giống như thế.
Sư nói:
- Nếu cái định thông đạt thì y hệt minh châu mà nay thấy nhân giả chẳng phải môn đồ của minh châu.
Kia nói:
- Châu ấy sáng thông suốt trong ngồi đều định, tâm tôi không loạn ví như cái tịnh (sạch) ấy.
Sư nói:
- Châu ấy không trong ngoài (năng sở), nhân giả làm sao hay (năng) định vật nhơ (sở) mà chẳng dao động?. Định như thế không phải cái tịnh (sạch) của minh châu.
Đạt Ma Đạt nhờ ngài khai ngộ tâm địa sáng suốt. Ngài đã thu phục trọn năm nhóm, danh tiếng đồn xa gần. Ngài còn đi tìm người nối pháp, gặp một trưởng giả dẫn theo người con trai.
Trưởng giả hỏi:
- Con tôi đây tên là Tư Đa, mới sanh ra thì bàn tay trái đã nắm chặt, nay nó đã lớn rồi mà vẫn chưa chịu mở ra. Xin ngài chỉ cho tôi biết cái nhân duyên đời trước của nó.
Ngài nhìn Tư Đa, vừa nói vừa đưa tay tiếp nhận:
- Trả hạt châu lại ta.
Đồng tử liền mở bàn tay dâng châu lên ngài. Chúng đều kinh ngạc, ngài nói:
- Thân nghiệp báo đời trước của ta làm tăng, ta có đồng tử thị giả tên Bà Xá. Ta thường cùng đồng tử dự trai ở Tây Hải, nhận hạt châu cúng dường rồi đưa cho đồng tử. Nay nó trả ta hạt châu là lẽ tất nhiên thôi.
Trưởng giả bèn cho con trai ông xuất gia, Ngài cho thọ giới cụ túc. Do tiền duyên đó ngài đặt tên là Bà Xá Tư Đa.
Tôn giả lại nói với Tư Đa:
- Thầy ta có lần riêng huyền ký, ta sắp mắc nạn. Chánh pháp nhãn tạng của Như Lai nay chuyển giao cho ngươi, ngươi nên giữ gìn và làm thấm nhuần suốt tới bờ mé vị lai.
Kệ rằng:
Chánh thuyết tri kiến thời
Tri kiến câu thị tâm
Đương tâm tức tri kiến
Tri kiến tức vu kim.
Dịch:
Chánh thuyết lúc tri kiến
Tri kiến đều là tâm
Chính tâm tức tri kiến
Tri kiến tức bây giờ.
Ngài nói kệ xong, đem y tăng già lê thầm trao cho Tư Đa, dạy đi nước khác tùy cơ duyên giảng dạy. Tư Đa vâng lời đi thẳng đến Nam Thiên Trúc.
Tổ sư đời thứ 23 là Hạc Lặc Tôn giả khi truyền pháp cho ngài có nói trước rằng: “Ta qua đời được 50 năm sẽ có nạn đến với con”. Ngài cho là tai nạn không nên mong thoát, một mình ở lại nước Kế Tân. Bấy giờ nước này có hai người ngoại đạo, một người tên là Ma Mục Đa, người kia tên Đô Lạc Già. Họ học những pháp huyễn thuật, muốn cùng nhau mưu phản loạn, mới giả mạo ra hình dáng và cách ăn mặc như tăng đoàn của ngài, rồi lén vào cung vua làm thích khách. Họ còn nói: “Nếu việc không thành thì quy tội cho Thích tử”. Yêu quái tự gây họa cũng chưa tới đâu thì việc đã bại lộ.
Vua rất phẫn nộ, nói:
- Lâu nay ta đem lòng quy kính tam bảo, vì sao muốn gây sát hại quá đáng như thế?
Vua tức thời ra lệnh phá hủy chùa chiền, bài trừ Thích chúng. Rồi tự cầm gươm đến gặp ngài, vua hỏi:
- Thầy được uẩn (ngã) không chưa?
Tôn giả đáp:
- Đã được ngã không.
Hỏi:
- Lìa sanh tử chưa?
Tôn giả đáp:
- Đã lìa sanh tử.
Vua hỏi:
- Đã lìa sanh tử, có thể cho ta cái đầu chăng?
Tôn giả nói:
- Thân này chẳng phải ta, còn tiếc gì cái đầu.
Vua liền vung đao chặt đầu ngài. Sữa trắng phun vọt lên cao mấy thước. Cánh tay phải của vua cũng liền theo đầu rơi xuống đất, bảy ngày sau vua mất. Thái tử Quang Thủ than:
- Cha tôi vì cớ gì tự chuốc lấy tai họa ấy?
Bấy giờ có tiên nhân ở núi Tượng Bạch biết rõ việc nhân quả ấy, đến nói đầy đủ nhân đời trước cho Quang Thủ nghe mà giải tỏa lưới nghi (Duyên sự đời trước giữa ngài và vua có ghi đủ trong Thánh Trụ Tập và Bảo Lâm Truyện). Rồi nhận thi thể của Tôn giả Sư Tử mà xây tháp tại đó thờ.
Nhằm nhà Ngụy Tề vương năm thứ 20, năm kỷ mão (259 công nguyên) (Đúng ra là năm Cao Quý Hương công thứ 6, vì Tề vương tên là Phương lên ngôi được 15 năm bị phế đi. Chánh Tông Ký ghi “Bảo Lâm Truyện chép lầm là kỷ mão, đúng ra là Tề vương Phương năm đinh mão” – 247 công nguyên. Vậy thì là năm Tề vương thứ 8).
Lịch Sử Truyền Thừa Đức Phật nói rằng khi Tổ Sư Tử đang truyền bá Phật giáo tại vùng Kế Tân thì bị vua xứ này hành quyết (chặt đầu). Và khi đầu của Sư bị chặt thì bản văn kể tiếp, sữa tuôn ra từ cổ của Sư thay vì máu. Theo Phật Tổ Truyền Thừa Ký, ngay khi hành quyết, nhà vua té quỵ xuống đất, cánh tay vẫn còn nắm thanh gươm, và bảy ngày sau đó thì nhà vua chết. Tổ Sư Tử thường được trích dẫn như là một biểu tượng của việc sẵn sàng xả thân vì Pháp [X. Phó Pháp Tạng Nhân Duyên Truyện Q.6; Cảnh Đức Truyền Đăng Lục Q.2; Bảo Lâm Truyện Q.5].
Tuy ngài chứng đắc thần thông tự tại, nhưng do định nghiệp cũng không tránh được bị vua sát thương.
Tôn giả Sư Tử trao cho Bà Xá Tư Đa tâm pháp tín y làm chánh tự (chánh truyền), ngồi ra còn bàng xuất Đạt Ma Đạt qua bốn đời gồm 22 vị.
Kệ truyền pháp:
Chánh thuyết tri kiến thời
Tri kiến câu thị tâm
Đương tâm tức tri kiến
Tri kiến tức vu kim
Dịch:
Chính khi nói tri kiến
Tri kiến đều là tâm
Chính tâm tức tri kiến
Tri kiến tức là hiện nay
|