Additional Info
(s: Prajñātara, 般若多羅, Bát Nhã Đa La (? - 457)). Tổ truyền pháp thứ hai mươi bảy của Thiền Tông Ấn Độ.
Cũng gọi Anh Lạc Đồng Tử. Người đông Thiên Trúc, dòng Bà La Môn.
Theo Phật Tổ Truyền Thừa Ký, cha mẹ mất sớm, thường đi rong trong làng xóm, gia nhập với những người láng giềng đi lang thang ở thôn quê xin thức ăn. Tuy nhiên, ngôn ngữ và cử chỉ của ngài hoàn toàn khác với họ. Bất cứ lúc nào ngài được yêu cầu làm việc gì thì ngài cố gắng hết sức mình hoàn thành mà không đòi hỏi tiền bạc, hành động gần giống như “Thường Bất Khinh Bồ Tát”. Khoảng hai mươi tuổi, gặp tổ thứ 26 Bất Như Mật Đa, nhận sự phó chúc mà trở thành tổ thứ 27 ở Tây Thiên. Sau khi được pháp, tổ đến nước Hương Chí ở miền nam Thiên Trúc, vua nước ấy tôn thờ Phật thừa, kính trọng tăng cúng dường cứu giúp chúng sanh vượt qua thường tình, vua thí cả vô giá bảo châu. Bấy giờ vua có ba vương tử, người thứ ba (út) là Bồ Đề Đa La (tức Bồ Đề Đạt Ma). Ngài muốn thử nghiệm cái sở đắc của vị này, bèn lấy vô giá bảo châu do vua cúng ra hỏi ba vị vương tử rằng:
- Châu này tròn sáng, trên đời có chi bằng được cái này chăng?
Vị thứ nhất là Mục Tịnh Đa La, vị thứ hai là Công Đức Đa La đều đáp:
- Trong hàng thất bảo, châu này là quý báu vốn không có gì hơn được. Trừ phi Tôn giả có đạo lực, có ai giữ được nó đâu?.
Vị thứ ba, Bồ Đề Đa La đáp:
- Cái này là đồ quý báu của thế gian chưa đủ làm tột, trong các thứ quý báu thì sự quý báu của pháp là tột đỉnh. Đây là ánh sáng của thế gian chưa đủ làm tột, trong các thứ ánh sáng thì ánh sáng trí tuệ là tột đỉnh. Đây là sự trong sáng (vô nhiễm) của thế gian chưa đủ làm tột, trong các sự trong sáng thì sự trong sáng của tâm là tột đỉnh.
Châu này sáng tỏ mà không thể tự chiếu sáng tỏ được, phải nhờ ánh sáng trí tuệ mới hay biện biệt đến sự sáng tỏ đó; đã biện biệt sự sáng tỏ đó mới biết đó là châu, đã biết đó là châu thì hiểu rõ sự quý báu của nó. Nếu hiểu rõ sự quý báu của nó, nó quý báu mà không tự hiểu mình quý báu. Cũng như biện biệt cho nó là châu mà châu không tự biện cho mình là châu, châu không thể tự cho mình là châu mà phải nhờ châu trí tuệ mới biện biệt được châu thế gian; châu quý báu mà không thể tự cho mình quý báu, phải nhờ sự quý báu của trí tuệ mới hiểu rõ sự quý báu của pháp (châu).
Thế mà thầy đã có cái đạo kia thì cái báu kia liền hiển lộ, chúng sinh có đạo thì sự quý báu của tâm cũng thế.
Ngài khen ngợi trí tuệ biện luận của Bồ Đề Đa La, lại hỏi thêm:
- Trong các vật, vật nào vô tướng?
Đáp:
- Trong các vật, (tâm) chẳng khởi là vô tướng.
Lại hỏi:
- Trong các vật, vật nào tối cao?
Đáp:
- Trong các vật, (tâm) nhân ngã là tối cao.
Lại hỏi:
- Trong các vật, vật nào tối đại?
Đáp:
- Trong các vật, pháp tánh là tối đại.
Ngài biết đây là pháp tự (người nối pháp), nhưng thời tiết chưa đến Tổ vẫn giữ yên lặng và chưa phân định cho Đa La. Đến lúc vua Hương Chí chán đời thì mọi người đều kêu khóc tuyệt vọng, chỉ có người con thứ ba là Bồ Đề Đa La nhập định trước linh cữu, trải qua bảy ngày mới xuất định rồi xin Tổ xuất gia.
Sau khi thọ giới cụ túc, ngài bảo Đa La:
- Như Lai đem chánh pháp nhãn trao cho Đại Ca Diếp, lần lượt như thế mới đến tay ta. Nay ta trao cho ông, hãy nghe ta nói kệ:
Tâm địa sanh chư chủng
Nhân sự phục sanh lý
Quả mãn bồ đề viên
Hoa khai thế giới khởi
Dịch:
Tâm địa sanh các giống
Do sự lý sống lại
Quả đầy bồ đề đủ
Hoa nở thế giới bày
Ngài truyền pháp xong liền từ tòa đứng dậy, giơ thẳng hai tay. Mỗi tay phóng ánh sáng thành 27 đạo hào quang ngũ sắc, lại vọt thân lên không trung cao bảy cây đa la, rồi hóa lửa tự thiêu. Từ trên không xá lợi rơi xuống như mưa, chúng thu gom xá lợi xây tháp thờ.
Nhằm nhà Tiền Tống Hiếu Vũ đế, năm Đại Minh thứ nhất, năm Đinh Dậu (457 công nguyên).
(Chánh Tông Ký ghi là “Đời Tống Hiếu Vũ”. Lại chú: Lấy năm Đạt Ma 67 tuổi mà tính năm. Đúng ra là đời Tống Hiếu Vũ đế, năm Kiến Nguyên thứ nhất, năm giáp ngọ – 454 công nguyên).
Sau, ngài Bồ Đề Đạt Ma đông du đến Trung Quốc, là tổ đầu tiên của Thiền Tông Trung Quốc. [X. Xuất Tam Tạng Kí Tập Q.9; Cảnh Đức Truyền Đăng Lục Q.2; Ngũ Đăng Hội Nguyên Q.1].
Kệ truyền pháp:
Tâm địa sanh chư chủng
Nhơn sự phục sanh lý
Quả mãn bồ đề viên
Hoa khai thế giới khởi.
Dịch:
Đất tâm sanh các giống
Nhơn sự lại sanh lý
Quả đầy bồ đề tròn
Hoa nở thế giới sanh.
|