TS Ngưu Đầu Pháp Dung

Personal Information

Danh Tánh
TS Ngưu Đầu Pháp Dung - Khai Tổ Ngưu Đầu Tông
Gender ♂️ Male

Hành Trạng

Additional Info

(法融, Gozu Hōyū, Gozu Hoyu (jap) - Niu-tou Fa-jung (WadeGiles Chinese) - Niutou Farong (Pinyin Chinese), 594-657): Pháp Dung là tên của một vị Thiền sư Trung Hoa vào thế kỷ thứ bảy, tổ của Tông Ngưu Đầu Trung Quốc, người vùng Diên Lăng (延陵), Nhuận Châu (潤州), huyện Đan Dương, tỉnh Giang Tô, họ là Vi (韋). Ban đầu sư học về Nho Giáo, nghiên cứu hết thảy các kinh thư, tình cờ xem Kinh Bát Nhã, liền qui tín Phật Pháp.
Một hôm, Sư bỗng nhiên than rằng: “Sách đạo Nho ở đời, chẳng phải là pháp cứu cánh, chánh quán Bát Nhã là thuyền bè xuất thế”. Sau đó sư theo tham học và xuất gia với vị Pháp Sư Quỳnh Tam Luận Tông ở Mao Sơn (茅山, Tỉnh Giang Tô), trở thành Tăng sĩ năm 19 tuổi.
Trong một thời gian rất dài, không biết là bao lâu, sư đã tu học với một vị thầy khá có tiếng tăm thuộc phái Trung Quán và trụ tại Trường An hơn ba năm, cố gắng thuyết phục nhà Đường nới lỏng những hạn chế chống lại Phật giáo.
Sư đã từng vào trong núi ngồi an nhiên trong vòng 20 năm, đến năm thứ 17 (643) niên hiệu Trinh Quán (貞觀), sư lập riêng 1 Thiền Thất ở Nham Hạ, phía bắc chùa U Thê (幽棲寺) thuộc Ngưu Đầu Sơn (牛頭山), ẩn tu thiền quán, tăng chúng các nơi đến tham học có hơn trăm người. Ðạo hạnh của Sư cảm hóa được cả thú rừng nên chúng đem hoa quả đến cúng dường. Tổ Ðạo Tín (ở trên núi Phá Đầu) nhân lúc qua đây xem khí tượng biết trên núi (Ngưu Đầu) có bậc dị nhân, đích thân lên núi tìm Sư.
Tổ đích thân tìm đến hỏi thăm những vị tăng trong chùa (U Thê) rằng:
- Ở đây có đạo nhơn chăng?
Có vị tăng đáp:
- Phàm là người xuất gia ai chẳng phải đạo nhơn?
Tổ hỏi:
- Cái gì là đạo nhơn?
Tăng không đáp được.
Có vị tăng khác thưa:
- Cách đây chừng mười dặm trong núi, có một vị lười biếng, thấy người chẳng đứng dậy chào, cũng không chấp tay, phải là đạo nhơn chăng?.
Tổ liền vào núi, thấy Sư đang ngồi thiền trấn tỉnh tự như, mảy may không trói buộc, chẳng để ý đến ai. Tổ thấy thế bèn hỏi:
- Ở đây làm gì?.
Sư đáp:
- Quán tâm.
Tổ hỏi:
- Ai quán, tâm là vật gì?.
Sư không đáp được, bèn đứng dậy làm lễ thưa:
- Đại đức an trụ nơi nào?
Tổ đáp:
- Bần tăng không chỗ nhất định, hoặc Đông hoặc Tây.
Sư hỏi:
- Ngài biết thiền sư Đạo Tín chăng?
Tổ hỏi:
- Vì sao hỏi ông ấy?
Sư thưa:
- Vì nghe danh đức đã lâu, khao khát muốn đến lễ yết.
Tổ bảo:
- Thiền sư Đạo Tín là bần đạo đây.
Sư hỏi:
- Vì sao Ngài quang lâm đến đây?
Tổ đáp:
- Vì tìm đến thăm hỏi ngươi, lại có chỗ nào nghỉ ngơi chăng?
Sư chỉ Tổ vào hang phía sau tạm nghỉ. Thấy thú dữ lăng xăng, Tổ ra vẻ sợ, Sư hỏi:
- Ngài vẫn còn cái đó sao?.
Tổ hỏi lại:
- Cái đó là cái gì?.
Sư không đáp được.
Một lát sau, Tổ viết lên bàn tọa của Sư chữ “Phật” (佛). Sư trông thấy giật mình, Tổ hỏi:
- Vẫn còn cái đó sao?.
Sư nghe không hội bèn làm lễ cầu xin chỉ dạy. Tổ bèn dạy:
- Phàm trăm ngàn pháp môn đồng về một tấc vuông. Diệu đức như hà sa thảy ở nơi nguồn tâm. Tất cả môn giới, định, huệ, thần thông biến hóa, cả thảy đều ở tâm ngươi... Không có tam giới có thể ra, không có Bồ-đề có thể cầu... Chỉ tâm ngươi tự tại, chớ khởi tham sân, chớ ôm lòng lo buồn, rỗng rang không ngại, mặc tính tung hoành, chẳng làm việc thiện, chẳng làm việc ác, đi đứng ngồi nằm, mắt thấy gặp duyên thảy đều là diệu dụng của Phật. Vì vui vẻ không lo buồn nên gọi là Phật.
Sư hỏi:
- Tâm đã đầy đủ, cái gì là Phật?. Cái gì là tâm?.
Tổ đáp:
- Chẳng phải tâm thì không hỏi Phật, hỏi Phật thì chính là tâm.
Sư hỏi:
- Ðã không khởi quán hạnh, khi gặp cảnh khởi tâm làm sao đối trị?.
Tổ đáp:
- Cảnh duyên không tốt xấu, tốt xấu khởi nơi tâm, nếu tâm chẳng theo danh, vọng tình từ đâu khởi?. Vọng tình đã chẳng khởi, chân tâm mặc tình biết khắp. Ngươi chỉ tùy tâm tự tại, chẳng cầu đối trị, tức gọi là Pháp thân thường trụ, không đổi thay, ta nhận pháp môn đốn giáo của tổ Tăng Xán, nay trao lại cho ngươi. Nay ngươi nhận kỹ lời ta, chỉ ở núi này, về sau có năm vị thông suốt đến nối tiếp ngươi giáo hóa.
Sư nhân đây đốn ngộ. Tổ truyền trao pháp xong, bèn trở lại Song Phong trọn đời. Sư trụ trì tại Ngưu Ðầu sơn, học chúng đến rất đông, sư trình bày cho họ nghe về Phật Pháp theo lối hiểu của mình. Người đời gọi thiền pháp ấy là “Ngưu Đầu Thiền”. Sư dùng núi này làm trung tâm của pháp hệ, gọi là tông Ngưu Đầu, truyền đến ngài Tuệ Trung thì ngưng, được tất cả 6 đời, gọi là Ngưu Đầu Lục Tổ, cực thịnh 1 thời, đến đời Tống về sau thì suy dần. Một nhà sư Nhật Bản tên Saichô đã đưa học thuyết nầy về Nhật, nhưng phái Ngưu Đầu không phát triển cả tại Trung Quốc lẫn Nhật Bản. Sau đó vài thế hệ thì tàn lụi.
Pháp Dung là một trong những thiền sư sớm nhất của Trung Quốc. Là đệ tử của Tứ Tổ Đạo Tín; tuy nhiên sư không được kế thừa Pháp. Do đó phái của sư không được thừa nhận. Ngưu Đầu Thiền chịu ảnh hưởng của Tam Luận tông và Thiền Tông, chú ý vào không tịch. Thiền phong chú trọng ở chỗ vô tâm tuyệt quán, hoặc tuyệt quán vong thủ, rất giống với thiền pháp của Đạo Tín. Người đời sau cũng gọi sư là “Ngưu Đầu Sơn Tăng”, “Dung Đại Sư”, “Huệ Dung”.
Năm Trinh Quán 21 (647), sư giảng Kinh Pháp Hoa ở Nham Hạ, cảm được trời mưa hoa báu.
Khoảng niên hiệu Vĩnh Huy đời Đường (650-656) đồ chúng thiếu lương thực, Sư phải sang Đơn Dương hóa duyên, cách núi Ngưu Đầu đến tám mươi dặm, Sư đích thân mang một thạch tám đấu gạo, sáng đi chiều về để cúng dường ba trăm tăng, hai thời không thiếu.
Đến năm thứ 3 (652) niên hiệu Vĩnh Huy (永 徽), có vị Quan Ấp Tể tên Tiêu Nguyên Thiện thỉnh Sư đến chùa Kiến Sơ hoằng hóa. Thể theo lời thỉnh cầu, sư đến giảng Đại Phẩm Bát Nhã Kinh tại Kiến Sơ Tự (建初寺) ở Kiến Nghiệp (建業, Tỉnh Giang Tô) và cũng có được sự kỳ ứng,Sư giảng đến phẩm Diệt Tĩnh, mặt đất bỗng nhiên rúng động. Giảng xong, sư trở về núi.

*

Ngài Khuê Phong nhận xét: “Làm tiêu mất tông vô ký, bỏ đi giáo tướng mà ấn chứng cho”.
Có tăng hỏi Nam Tuyền:
- Khi Ngưu Đầu chưa gặp Tứ Tổ, vì sao chim thú mang hoa đến cúng dường?
Nam Tuyền đáp:
- Bởi vì từng bước đạp lên bậc thang Phật.
Động Sơn đáp:
- Như xem châu trong bàn tay, ý không tạm rời.
Tăng hỏi:
- Sau khi Ngưu Đầu gặp Tứ Tổ, vì sao chim thú chẳng đến?
Nam Tuyền đáp:
- Dù không đến, còn một tuyến đường tương đối với Vương Lão sư.
Động Sơn đáp:
- Thân đã thông suốt rồi(54).
Lại có một vị tôn túc đáp chung cho hai câu hỏi trước:
- Giặc không đánh nhà của kẻ nghèo.
Tăng hỏi một lão túc:
- Khi Ngưu Đầu chưa gặp Tứ Tổ thì thế nào?
Đáp:
- Như lá liền cành.
Tăng hỏi:
- Gặp rồi thì thế nào?
Đáp:
- Đêm thu lá rơi lả tả.
Lại có tăng hỏi thiền sư Tiềm ở Vĩnh Minh, Ngô Việt:
- Khi Ngưu Đầu chưa gặp Tứ Tổ thì thế nào?
Tiềm đáp:
- Ngưu Đầu.
Tăng hỏi:
- Gặp rồi thì thế nào?
Tiềm đáp:
- Ngưu Đầu.
Các nơi nêu đáp đề tài này rất nhiều, không thể chép hết)

*

Bác Lăng Vương hỏi Sư:
Khi cảnh duyên sắc phát
Không nói duyên sắc khởi
Làm sao biết được duyên
Muốn dứt cái khởi ấy?
Sư đáp:
Cảnh sắc khi mới khởi,
Sắc cảnh tánh vẫn không,
Vốn không người biết duyên,
Tâm lượng cùng tri đồng1Tâm lượng: Tâm vọng tưởng, duyên theo cảnh sắc khởi phân biệt, có năng duyên sở duyên, còn gọi là tâm phan duyên.
Tri: Tâm chơn thật như như bất động, chẳng theo duyên hay chiếu soi.
Vọng và chơn bất nhị, đồng nhất thể.
.
Soi gốc phát chẳng phát,
Khi ấy khởi tự dứt,
Ôm tối sanh hiểu duyên2Giác duyên: Tâm phan duyên, tâm tâm sở nương theo duyên cảnh sắc sanh hiểu biết, tâm vọng của phàm phu.,
Khi tâm duyên chẳng theo.
Chí như trước khi sanh,
Sắc tâm không nuôi dưỡng.
Từ không vốn vô niệm,
Tưởng thọ lời niệm sanh.
Khởi phát chưa từng khởi,
Đâu cầu Phật chỉ dạy.
Hỏi:
Nhắm mắt không thấy sắc
Cảnh lự lại thêm phiền
Sắc đã chẳng quan tâm
Cảnh từ chỗ nào phát?
Sư đáp:
Nhắm mắt không thấy sắc,
Trong tâm động lự nhiều,
Huyễn thức giả thành dụng,
Khởi danh trọn không lỗi.
Biết sắc chẳng liên quan tâm,
Tâm cũng chẳng liên quan người,
Tùy đi có tướng chuyển3Hành: Tâm hành, tâm thức sanh diệt. Ngay nơi tâm hành, dùng cái biết sẵn có bất sanh bất diệt chiếu soi nó. Đó gọi là chuyển tướng, chuyển thức thành trí, vọng như hoa đóm trong hư không,
Chim bay thật trong không.
Hỏi:
Cảnh phát không chỗ nơi
Hiểu4Giác: Hay biết, cảm giác, lập năng sở thuộc về vọng duyên rõ biết sanh.
Cảnh mất hiểu lại chuyển
Hiểu bèn biến làm cảnh.
Nếu dùng tâm kéo tâm
Lại thành biết bị biết.
Theo đó cùng nhau đi
Chẳng lìa mé sanh diệt?
Sư đáp:
Tâm sắc, trước, sau, giữa,
Thật không cảnh duyên khởi.
Một niệm tự ngừng mất,
Ai hay tính động tịnh,
Đây biết tự không biết.
Biết, biết duyên chẳng hội5Biết: Biết vô tri, chơn tri. Biết duyên: Biết lập tri, vọng tri. Vọng tri không ngồi chơn tri mà không ô nhiễm chơn tri được..
Nên tự kiểm bản hình,
Đâu cần cầu ngoại cảnh.
Cảnh trước không biến mất,
Niệm sau chẳng hiện ra,
Tìm trăng chấp bóng huyền,
Bàn dấu đuổi chim bay.
Muốn biết tâm bản tánh,
Lại như xem trong mộng.
Ví đó băng tháng sáu,
Nơi nơi đều giống nhau.
Trốn không trọn chẳng khỏi,
Tìm không lại chẳng thành.
Thử hỏi bóng trong gương,
Tâm từ chỗ nào sanh?
Hỏi:
Khi đều đặn dụng tâm
Làm sao được an ổn?
Sư đáp:
Khi đều đặn dụng tâm,
Đều đặn không tâm dụng.
Bàn quanh danh tướng nhọc,
Nói thẳng không mệt phiền.
Không tâm đều đặn dụng,
Thường dụng đều đặn không.
Nay nói chỗ không tâm,
Chẳng cùng có tâm khác6Vô tâm: Cái biết thường hằng ngay nơi vọng tâm (hữu tâm), tự ta bỏ quên nó theo vọng tâm.
Hỏi:
Người trí dẫn lời diệu
Cùng tâm phù hợp nhau
Lời cùng tâm đường khác
Hiệp thì trái vô cùng?
Sư đáp:
Phương tiện nói lời diệu,
Phá bệnh đạo Đại thừa.
Bàn chẳng quan bản tánh,
Lại từ không hóa tạo.
Vô niệm là chơn thường.
Trọn phải bặt đường tâm.
Lìa niệm tánh chẳng động,
Sanh diệt chẳng trái lầm.
Tiếng vang trong hang đã có tiếng,
Bóng gương hay ngó lại.
Hỏi:
Hành giả xét cảnh có
Vì hiểu biết cảnh mất.
Hiểu trước và hiểu sau
Cùng cảnh tâm có ba?
Sư đáp:
Cảnh dụng chẳng thể hiểu,
Hiểu rồi không nên nghĩ.
Vì hiểu biết cảnh mất,
Khi hiểu cảnh không khởi.
Hiểu trước và hiểu sau,
Cùng cảnh chậm có ba.
Hỏi:
Trụ định đều không chuyển
Sẽ là chánh Tam-muội
Các nghiệp không thể khéo
Chẳng biết vô minh tế7Tế: Vi tế Từ từ bước theo sau?
Sư đáp:
Lại nghe có người khác,
Rỗng chấp khởi tâm lượng.
Trong ba việc không thành,
Không chuyển còn hư vọng.
Tâm bị chánh thọ trói,
Vì muốn tịnh nghiệp chướng.
Tâm trần trong muôn một8Tâm là chủ, chỉ có một; trần là khách có rất nhiều (muôn),
Không rõ nói vô minh.
Vi tế tập nhân khởi,
Từ từ danh tướng sanh.
Gió đến sóng mòi chuyển,
Muốn lặng nước lại yên.
Lại muốn nói tương lai,
Sợ rằng tâm sau kinh.
Vô niệm thú lớn rống,
Tánh không mưa đá rơi.
Tan tác cỏ úa diệt,
Ngang dọc chim bay rơi.
Năm đường9Năm đường (Ngũ đạo, ngũ thú): Năm đường luân hồi sanh tử của hữu tình. Đó là địa ngục, ngạ quỹ, súc sanh, nhân, thiêntạp loạn định,
Bốn ma10Tứ ma: Bốn loại ma đoạt lấy thân mạng và huệ mạng của người. Đó là ma ngũ uẩn, ma phiền não, ma chết, thiên ma (ma vương).không tới lui.
Như lửa dữ thiêu đốt,
Tợ như kiếm bén chặt.
Hỏi rằng:
Nhờ hiểu biết vạn pháp
Vạn pháp xưa nay vậy
Nếu mượn tâm chiếu dụng
Chỉ được tâm chiếu dụng
Không phải việc trong tâm?
Sư đáp:
Nhờ hiểu biết vạn pháp,
Vạn pháp trọn không mượn.
Nếu mượn tâm chiếu dụng,
Nên không ở ngoài tâm.
Hỏi rằng:
Đi theo không lựa chọn
Tâm sáng không hiện tiền
Tâm lự lại mờ tối
Tại tâm dụng công hạnh
Trí chướng lại khó trừ?
Sư đáp:
Có đó không thể có,
Tìm đó không thể tìm.
Không lựa tức chơn chọn,
Được khỏi tối tâm sáng.
Lự là tâm mờ tối,
Còn tâm mượn công hạnh,
Sao luận trí chướng khó,
Phật phương tiện vì bệnh.
Hỏi rằng:
Chiết trung trong tin tức
Thật cũng khó an định.
Chẳng phải tự dụng hạnh
Khó này trọn khó thấy.
Sư đáp:
Vừa hợp (chiết trung) muốn tin tức,
Tin tức chẳng khó dễ.
Trước quán tâm ở tâm,
Kế tìm trí trong trí,
Thứ ba soi người tìm,
Thứ tư thông vô ký,
Thứ năm giải thoát danh,
Thứ sáu chơn ngụy bằng,
Thứ bảy biết gốc pháp,
Thứ tám từ vô vi,
Thứ chín mát mẻ khắp,
Thứ mười mây mưa phủ.
Tận cùng không hiểu kia,
Vô minh sanh bổn trí.
Bóng gương hiện ba nghiệp,
Người huyễn hóa bốn đường.
Chẳng trụ tận bờ không,
Nên trong không soi có,
Trong có chẳng ngoài không,
Chưa đi cùng có không.
Gọi đó là vừa hợp (chiết trung),
Vừa hợp chẳng có lời.
An định không chỗ an,
Dụng hạnh đâu thể quyết.
Hỏi rằng:
Riêng có một loại người
Khéo giải không vô tướng.
Nói định loạn đồng nhất
Lại trong không nói có.
Đồng chứng dụng thường lặng
Hiểu biết lặng thường dụng.
Dùng tâm hiểu chân lý
Lại nói dụng không dụng.
Trí tuệ nhiều phương tiện
Nói loạn cùng lý hợp.
Như như lễ tự như
Không do thức tâm hiểu.
Đã biết tâm hiểu sai
Tâm tâm lại mất hết.
Như vậy khó biết pháp
Kiếp kiếp không thể biết.
Cùng người dụng tâm này
Không thể giáo hóa pháp.
Sư đáp:
Riêng có người chứng không,
Lại như luận kệ trước,
Hành không giữ tịch diệt,
Kiến giải tạm thời đổi.
Hiểu chơn là tâm lượng,
Cuối cùng chưa rõ nguồn,
Lại nói dứt dụng tâm,
Nhiều trí nghi tương tợ.
Bởi do tánh không sáng,
cầu không lại nhọc thôi,
Kiếp kiếp trụ thức tối,
Chấp tướng đều không biết.
Phóng quang liền động đất,
Ở đó mong làm gì?
Hỏi rằng:
Việc trước người khán tâm
Lại còn phiền não tế?
Sư đáp:
Khán tâm còn phiền tế,
Tâm huyễn đâu đợi khán,
Huống người không tâm huyễn,
Thong dong ở ngay miệng.
Hỏi rằng:
Xưa có cơ nghiệp lớn
Đường tâm trong sai lầm.
Hiểu được chướng vi tế
Tức rõ được mé chơn.
Tự chẳng phải thầy khéo
Không thể quyết lý này.
Con ngưỡng mong Đại sư,
Nay vì mở yếu môn (pháp môn tinh yếu).
Dẫn đường người dụng tâm,
Khiến không mất chánh đạo.
Sư đáp:
Pháp tánh cơ nghiệp xưa,
Mộng cảnh thành sai lầm,
Thật tướng thân vi tế,
Sắc tâm thường chẳng ngộ.
Chợt gặp kẻ hỗn độn,
Bi ai thương quần sanh,
Tạm bày hỏi nghi lớn,
Giữ lý trong thường sáng.
Đường sanh tử thấu suốt,
Tâm khen chê chẳng sợ,
Lão quê đáp rõ ràng,
Pháp tướng thẹn người xưa.
Nhờ phát thuốc quần sanh,
Lại như sắc tánh làm.

*

Nhà Đường, niên hiệu Hiển Khánh năm đầu (656), Ấp Tể Tiêu Nguyên Thiện thỉnh Sư xuống núi trụ trì chùa Kiến Sơ. Sư hết lời từ chối mà không được. Bất đắc dĩ, Sư gọi đệ tử thượng thủ là Trí Nham truyền trao pháp ấn và dặn dò tiếp nối truyền dạy tại núi này.
Sư sắp xuống núi bảo chúng:
- Ta không còn bước chân lại núi này. Lúc đó chim thú kêu buồn gần suốt tháng không dừng. Trước am có bốn cây ngô đồng, giữa tháng hè bỗng nhiên rụng lá.
Sư thị tịch vào ngày 23 tháng giêng năm thứ 2 nhuận niên hiệu Hiển Khánh (顯 慶), hưởng thọ 64 tuổi, 41 tuổi hạ. Ngày 27 an táng ở núi Kê Lung, số người tiễn đưa Sư trên vạn người. Đệ tử nối pháp là sư Trí Nham.
Trước tác của sư để lại có Tuyệt Quán Luận (絶觀論) 1 quyển.
[X. Tục Cao Tăng Truyện Q.26; Cảnh Đức Truyền Đăng Lục Q.4; Phật Tổ Thống Kỉ Q.39; Phật Tổ Lịch Đại Thông Tải Q.12].

---o0o---

Tứ Tổ Đạo Tín và thiền sư Pháp Dung

Núi Ngưu Đầu phía tây nam Nam Kinh, cao 242m, có hai đỉnh như sừng trâu nên có tên núi Ngưu Đầu (núi đầu trâu), thế núi rất hiểm yếu.

Núi U Thê là một phân nhánh của núi Ngưu Đầu. Lưu Tống niên hiệu Đại Minh thứ ba (459) kiến lập chùa nơi đây, nên gọi là chùa U Thê.
Đường Thái Tông khoảng năm Trinh Quán (627-649), tổ Pháp Dung tại núi này tu hành được Tứ tổ Đạo Tín truyền pháp, thành lập tông Ngưu Đầu nơi đây được gọi là Nam Tông Tổ Đường, nên đổi tên U Thê thành Tổ Đường. Cuối đời nhà Đường, niên hiệu Quang Khải (885-888) chùa bị phế.
Ngô Duệ Tông niên hiệu Thái Hòa (930) trùng tu chùa đổi tên là viện Diên Thọ.
Nam Tống niên hiệu Trị Bình (1064-1067) phục hưng lại tên U Thê Tự.

 

---o0o---

Tổng quan về Ngưu Đầu Tông
Gozu-shu (jap) - Niu-TouTsung (chi) - Ox-head School - Ngưu Đầu Tông, một nhánh thiền thứ yếu và không thuộc một phái truyền thống ở Trung Hoa. Nó được thiền sư Pháp Dung, đệ tử của Tứ Tổ Đạo Tín, lập ra. Sự khởi đầu của Tông Ngưu Đầu thường được truy nguyên từ việc Thiền sư Pháp Dung thành lập một trung tâm Thiền ở chùa U Tê trên núi Ngưu Đầu vào năm 642, và có thể có sự thật nào đó trong sự xác quyết này vì trung tâm Thiền của Thiền sư Pháp Dung đã luôn thu hút một số lớn đệ tử và đã có một sự tiếp nối nào đó với những Thiền sư kế tiếp Pháp Dung về sau này của Ngưu Đầu tông. Mặc dầu trường phái Thiền Thiền Ngưu Đầu chưa bao giờ bị bị đối xử bằng sự xem nhẹ hiển nhiên như trường phái Bắc Tông (bắt nguồn từ Thần Tú), dòng Thiền Ngưu Đầu đã luôn được cho là một sự truyền thừa phụ thuộc vào một sự truyền thừa của chính Thiền tông, nhưng đã có giáo pháp gần giống với giáo pháp của Thiền Nam tông (khởi nguồn từ Huệ Năng). Thật tình mà nói, Ngưu Đầu tông đã luôn được phân tích, ngưỡng mộ và tranh luận về nó, nhưng chưa bao giờ với một tính chất hết sức kỹ lưỡng và mạnh mẽ được kết hợp với sự nghiên cứu của hai trường phái Bắc và Nam tông kia. Mặc dầu một vài cuộc nghiên cứu mới về Thiền Ngưu Đầu, đặc biệt là sau tác phẩm của Liễu Điền Thánh Sơn, thì tầm quan trọng của tông phái này mới trở nên rõ ràng hơn.

Sự Siêu Việt Nhận Thức Trong Tuyệt Quán Luận Của Ngưu Đầu Tông
Tuyệt Quán Luận là một trong những văn bản quan trọng nhất của Ngưu Đầu tông. Mãi cho đến ngày nay, chúng ta vẫn chưa biết tác giả thật của bộ luận này. Các học giả Phật giáo vẫn đang nghiên cứu xem coi người nào đã viết ra bộ luận này, nó có thể được quy cho Ngưu Đầu Pháp Dung, mà cũng có thể được quy cho một thành viên vô danh về sau này của tông Ngưu Đầu. Tuyệt Quán Luận luận về sự siêu việt nhận thức. Theo Tục Cao Tăng Truyện và Tống Cao Tăng Truyện, Tuyệt Quán Luận có lẽ được viết trong khoảng thời kỳ hoạt động mạnh nhất của Ngưu Đầu Tông, nghĩa là trong khoảng ba phần tư của thế kỷ thứ VIII. Tuyệt Quán Luận đề cập đến sự chiếu sáng của trí huệ, nhưng chỉ trong cái nghĩa vô tâm của bậc Thánh bao hàm đặc tính phi thực thể hay tánh không của thực tại. Tuyệt Quán Luận hay sự Siêu Việt Nhận Thức được trình bày như là một cuộc đối thoại giữa hai cá nhân giả định. Một là vị Thầy có tên là "Nhập Lỳ Tiên Sinh" (vị đã nhập vào tuyệt đối) hay, để có một cách đọc đơn giản hơn, "Giáo Sư Giác Ngộ." Người kia là một học trò có tên là Pháp Duyên Sanh hay chỉ gọi đơn giản là Duyên Sanh. Sau đây là phần đầu và phần kết của bản văn theo quyển Nghiên Cứu Thiền & Hoa Nghiêm Tông: Giáo Sư Giác Ngộ yên lặng và không nói gì. Duyên Sanh thình lình trở dậy và hỏi: "Cái gì là tâm? Cái gì là cái an tâm?" Giáo Sư Giác Ngộ đáp: "Ông không nên thừa nhận có tâm, ông cũng không nên nỗ lực làm cho nó an, đây có thể được gọi là 'đã an' rồi vậy." Duyên Sanh hỏi tiếp: "Nếu không có tâm, thì làm sao chúng ta có thể tu đạo được?" Giáo Sư Giác Ngộ đáp: "Đạo giác ngộ không phải là một tưởng niệm của tâm, vậy thì làm sao nó có thể xuất hiện trong tâm được chứ?" Duyên Sanh lại hỏi tiếp: "Nếu nó không được tưởng niệm hay nghĩ đến bởi tâm, thì làm sao nó nên được tưởng niệm đến?" Giáo Sư Giác Ngộ đáp: "Nếu có tưởng niệm thì có tâm, và có tâm là trái với Đạo giác ngộ. Nếu có Vô niệm thì liền có Vô tâm và vì có Vô tâm nên đạo giác ngộ chân thực hiển bày." Duyên Sanh lại hỏi nữa: "Tất cả chúng sanh đều thực sự có tâm hay là không có?" Giáo Sư Giác Ngộ đáp: "Nếu có tưởng niệm thì có tâm, và vì có tâm là trái với đạo giác ngộ. Nếu có Vô niệm thì liền có Vô tâm, và vì có Vô tâm nên chân đạo giác ngộ hiển bày." Duyên Sanh lại hỏi: "Tất cả chúng sanh đều thực sự có tâm hay không có?" Giáo Sư Giác Ngộ đáp: "Tất cả chúng sanh thực sự có tâm là một quan kiến sai lầm. Đặt tâm ở bên trong cảnh giới của Vô tâm là sanh khởi những ý tưởng sai lầm." Duyên Sanh hỏi: "Có những pháp gì ở trong Vô tâm không?" Giáo Sư Giác Ngộ đáp: "Vô tâm là không có pháp hay vô vật. Vô pháp là không có vật là Thiên Chân hay cái tự nhiên chân thật. Thiên Chân là Đại đạo hay sự giác ngộ lớn." Duyên Sanh hỏi: "Làm thế nào để có thể diệt được ý tưởng sai lầm hay vọng tưởng của chúng sanh?" Giáo Sư Giác Ngộ đáp: "Nếu ông nhận thức, nghĩa là suy nghĩ theo những ý tưởng sai lầm và dứt diệt, thì ông sẽ không siêu việt được những ý tưởng sai lầm hay vọng tưởng." Duyên Sanh hỏi: "Không dứt diệt vọng tưởng thì ta có thể hợp nhất với đạo lý hay không?" Giáo Sư Giác Ngộ đáp: "Nếu ông nói về sự 'hợp nhất' và 'không hợp nhất' thì ông sẽ không lìa bỏ được vọng tưởng." Duyên Sanh hỏi: "Vậy thì con phải làm cái gì  đây?" Giáo Sư Giác Ngộ đáp: "Ông không phải làm gì cả." Duyên Sanh nói: "Bây giờ con hiểu thậm chí còn ít hơn lúc trước nữa." Giáo Sư Giác Ngộ đáp: "Thật sự không hề có sự hiểu biết về Pháp. Đừng tìm hiểu nó." Duyên Sanh hỏi: "Cái tối thượng là gì?" Giáo Sư Giác Ngộ đáp: "Không hề có sự bắt đầu và sự kết thúc (vô thủy vô chung)." Duyên Sanh hỏi: "Có thể nào không có nhân quả gỉ cả hay không (tu hành và giác ngộ)?" Giáo Sư Giác Ngộ đáp: "Không hề có gốc mà cũng không hề có ngọn." Duyên Sanh hỏi: "Điều này được giải thích thế nào?" Giáo Sư Giác Ngộ đáp: "Cái chân thật thì không có giải thích." Duyên Sanh hỏi: "Cái gì là tri kiến (hiểu biết và nhận thức)?" Giáo Sư Giác Ngộ đáp: "Hiểu biết (tri) như như thục tính của tất cả các pháp, nhận thức (kiến) bình đẳng tính hay tính đồng nhất của vạn hữu." Duyên Sanh hỏi: "Tâm hiểu biết là tâm nào, mắt nhận thức là mắt nào?" Giáo Sư Giác Ngộ đáp: "Đây là cái biết của không biết (tri bất tri), cái nhận thức của không nhận thức (kiến vô kiến)." Duyên Sanh hỏi: "Ai dạy những lời này vậy?" Giáo Sư Giác Ngộ đáp: "Nó là cái như ta đã được hỏi." Duyên Sanh hỏi: "Nói rằng 'nó là cái như ngài đã được hỏi' có nghĩa gì?" Giáo Sư Giác Ngộ đáp: "Nếu không quán xét lại câu hỏi của chính mình, thì những đáp án do đó cũng sẽ được hiểu vậy." Chỗ này Duyên Sanh im lặng và suy nghĩ qua mọi thứ một lần nữa. Giáo Sư Giác Ngộ hỏi: "Tại sao ông không nói gì hết vậy?" Duyên Sanh đáp: "Con không nhận thức được thậm chí là một chút xíu của bất kỳ pháp nào vốn có thể giải thích được." Lúc đó Giáo Sư Giác Ngộ nói với Duyên Sanh: "Bây giờ có lẽ hình như ông đã nhận thức được Lý Chân rồi." Duyên Sanh hỏi: "Tại sao ngài lại nói là có lẽ hình như đã hiểu, mà không nói rằng con đã hiểu đúng Lý Chân?" Giáo Sư Giác Ngộ đáp: "Những gì mà ông hiện giờ nhận thức được là sự không hiện hữu tồn tại (phi hữu) của tất cả các pháp. Điều này cũng giống như các ngoại đạo  học cách tự biến mất, mà không thể hủy bỏ cái bóng và dấu chân của họ." Duyên Sanh hỏi: "Làm thế nào người ta có thể hủy bỏ được cả sắc và bóng?" Giáo Sư Giác Ngộ đáp: "Căn bản là không có tâm và các cảnh giới tri giác, ông phải không cố tâm sanh khởi quan kiến hay nhận thức gán cho nó về thường." Duyên Sanh hỏi: "Nếu người ta trở thành một đức Như Lai mà không chuyển hóa và ở ngay nơi thân xác của chính mình, thì làm sao có thể được gọi là khó khăn?" Giáo Sư Giác Ngộ đáp: "Có ý sanh tâm là dễ, diệt tâm là khó. Khẳng nhận thân xác là dễ, nhưng phủ nhận nó là khó. Hành động là dễ, sống mà không hành động là khó. Do đó, hãy hiểu rằng sự thành tựu thần bí là khó đạt được, khó đạt được sự hợp nhất với Diệu Lý hay nguyên lý kỳ diệu. Bất động là cái Chân, mà ba kiểu mẫu nhỏ hơn của nó (diệt tâm, phủ nhận và không hành động) chỉ hiếm khi đạt được." Vào lúc này thì Duyên Sanh thở dài, giọng của ông ta tràn ngập mười phương. Bỗng nhiên, vô thanh, ông ta kinh qua một sự giác ngộ hết sức bao la. Không nghi ngờ gì nữa, sự chói sáng huyền bí nơi trí tuệ thanh tịnh của ông ta hiển bày trong sự chiếu sáng ngược lại của nó. Lần đầu tiên ông ta nhận ra sự khó khăn cực độ của việc huấn luyện tâm linh và rằng ông ta đã bị bao vây một cách vô ích bởi những lo âu huyền hão. Lúc bấy giờ ông ta lớn tiếng ta thán rằng: "Tuyệt vời, tuyệt vời! Đúng như ngài đã dạy mà không có dạy, con cũng đã nghe mà không có nghe. Nghe và dạy hợp nhất là tương đương với cái Vô pháp trong sáng".

Những dòng truyền thừa của Ngưu Đầu Tông Sau Thiền Sư Pháp Dung 
Chúng ta có thể nói rằng truyền thống Ngưu Đầu tông bắt đầu với sự hội ngộ giữa Pháp Dung và Tứ Tổ Đạo Tín (580-651), vị Tổ thứ tư tiếp nối từ Bồ Đề Đạt Ma, trong đó chiều sâu kinh nghiệm Thiền của Pháp Dung được cho là do Tứ Tổ Đạo Tín ấn chứng. Từ điểm này dòng Thiền Ngưu Đầu nói chung có thể được chia ra làm nhiều phân đoạn khác nhau.
1) Sáu đời thế hệ thứ nhất: Nếu chúng ta khởi đầu với Tứ tổ Đạo Tín, rồi Pháp Dung (594-657), Trí Nham (577-654), Huệ Phương (627-695), Pháp Trì (627-695), Trí Oai (646-722). Mặc dầu Trí Nham lớn hơn Pháp Dung đến 17 tuổi và mất trước Pháp Dung đến 3 năm, nhưng Trí Nham vẫn là đệ tử của Pháp Dung, và sau khi được thầy khả ấn, Trí Nham tiếp tục truyền dạy pháp thiền của tông Ngưu Đầu tại những vùng phụ cận. Nói gì thì nói, rõ ràng có sự mâu thuẫn về ngày tháng và niên đại tuổi tác trong dòng truyền thừa này. Hơn thế nữa, theo những tài liệu còn sót lại cho thấy một sự mâu thuẫn khác về truyền thừa trực hệ, đó là cả Pháp Dung, Huệ Phương và Pháp trì tất cả đều cùng nhau ở cùng một địa điểm vào cùng một thời điểm trong sự nghiệp hoằng pháp của họ (làm sao có thể được?).
2) Đời thứ bảy dòng Thiền Ngưu Đầu chia làm hai nhánh: Cả Huyền Tố (688-752) lẫn Huệ Trung (683-769) đều là đệ tử của Thiền sư trí Oai. Huyền Tố lập ra dòng phụ Hạc Lâm Phái; trong khi Huệ Trung lập ra dòng phụ Ngưu Đầu Sơn Phái.
3) Đời thứ tám dòng Thiền Ngưu Đầu lại cũng chia làm hai nhánh khác
Đệ tử của Huyền Tố là Pháp Khâm lập ra Kính Sơn Phái; trong khi đó thì Phật Quật Di Tắc, đệ tử của Ngưu Đầu Huệ Trung, lại lập ra Phật Quật Phái. Tuy nhiên, sau đó tất cả những trường phái phụ nầy đều bị suy thoái ngay trong thời nhà Tống.

Chi tiết về những dòng truyền thừa phụ của Ngưu Đầu Tông sau dòng truyền thừa thứ năm 
Mặc dầu không có chứng cớ cho rằng bất kỳ lý thuyết đặc trưng về sự truyền thừa của Ngưu Đầu tông nào đã được biết trong khoảng đời của Thiền sư Trí Oai, vị trí của Trí Oai như là vị Tổ thứ năm của Ngưu Đầu tông cũng tương tự như vị trí của Hoằng Nhẫn trong truyền thống Bồ Đề Đạt Ma, theo nghĩa rằng mỗi truyền thống thành tựu sự phát triển đầu tiên thực sự của nó trong khoảng thời gian cuộc đời các đệ tử của họ. Sự giống nhau này làm cho hợp lý hơn để cho rằng những sáng kiến đổi mới của dòng Thiền vốn xác định tính chất Ngưu Đầu tông như là độc lập với Bắc tông Thần Tú và Nam tông Huệ Năng, và có thể Ngưu Đầu tông đã phát triển trong hình thức hạt nhân trong khoảng thế hệ thứ sáu và sau này. Sự phát triển sau này của Ngưu Đầu Tông đaị thể được mô tả liên quan tới bốn dòng truyền thừa phụ, vốn được đặt tên theo các nhân vật đứng đầu của mỗi phái.
1) Ngưu Đầu Sơn Phái: Đứng đầu bởi Ngưu Đầu Huệ Trung. Núi Ngưu Đầu, còn gọi là Ngưu Giác Sơn, ở phía nam cách thành Hòa Điền (Khotan) khoảng 3 dậm. Nơi mà bây giờ vẫn gọi như vậy.
2) Phật Quật Phái: Đứng đầu bởi Phật Quật Di Tắc, đệ tử của Huệ Trung. Sự kiện Thiền sư Phật Quật Di Tắc được đặt ở vị trí người đứng đầu một dòng truyền thừa phụ độc lập với thầy mình bắt nguồn từ sự thành công trong nỗ lực thành lập một trung tâm lớn mạnh của riêng ông trên núi Thiên Thai, huyện Tiên Thai, tỉnh Triết Giang. Theo Tống Cao Tăng Truyện, Phật Quật Học hưng thịnh trong vùng Triết Giang không kém tông Thiên Thai của Trí Khải và rằng nó đạt được một địa vị độc lập với Bắc tông của Thần Tú, Nam Tông của Huệ Năng, và Ngưu Đầu của Pháp Dung. Tuy nhiên, chỉ có một vài đoạn văn và tài liệu còn sót lại, nhờ đó mà đánh giá hay đo lường bản chất giáo pháp của phái này. Nét đặc biệt nổi bật nhất của Phật Quật phái là nó gồm có Phật Quật và hầu như không có ai khác, vì thật sự không hề có tài liệu hay thông tin nào cả về cuộc đời của các thành viên khác của phái này. Thật khó mà tin rằng Phật Quật phái hưng thịnh trên núi Thiên Thai nhiều như Thiên Thai tông của Trí Khải Đại Sư, nhưng mặc dầu vậy bản thân Phật Quật dường như đã có một tiếng tăm rất đặc biệt trong số những người cùng thời với ông.
3) Hạc Lâm Phái: Hạc Lâm là tên của một Thiền phái phụ do Thiền sư Huyền Tố sáng lập vào khoảng đầu thế kỷ thứ VIII. Trong khi Ngưu Đầu Sơn Phái và Phật Quật Phái hầu như không để cho có cái nhìn sáng tỏ vào trong những thực tế lịch sử của họ mà chỉ cho chúng ta một cái nhìn thoáng qua nhất vào thời giáo pháp của họ, thì hai dòng phụ khác của Ngưu Đầu tông được biết đến rất nhiều chi tiết hơn. Hai đặc điểm nổi bật của Hạc Lâm phái, thứ nhất là số lớn tài liệu thông tin về tiểu sử tầm cỡ quan trọng của các thành viên của phái này vẫn còn có sẵn và tỷ lệ phần trăm cao mà những người từ đó có sự giao thiệp nào đó với Mã Tổ Đạo Nhất và Thạch Đầu Hy Thiên. Các tiểu sử của thành viên phái này gợi ý chính sự chuyển tiếp từ Thiền sơ kỳ cho đến thời đại kinh điển hay thời đại hoàng kim. Thật vậy, cuộc đời của Hạc Lâm Huyền Tố lẫn Kính Sơn Pháp Khâm đều được biết đến nhờ những văn bia dài được bảo tồn trong Quán Đường Văn (toàn bộ tác phẩm đời nhà Đường). Tác phẩm đầu tiên trong các tác phẩm này nói riêng là một tài liệu cực kỳ quan trọng cho nội dung giáo pháp và chi tiết tiểu sử, Hơn nữa, nhiều đệ tử của mỗi vị được biết đến qua những bia văn và những tài liệu đương thời khác. Mặc dầu có những mâu thuẫn bên trong và những vấn đề khác làm cho những nguồn tài liệu này không thể sử dụng được cho các mục đích hiện tại, nhưng chính sự hiện hữu tồn tại của các mâu thuẫn và những vấn đề khác trong tự thân chúng đã là một đầu mối quan trọng cho vai trò có thể có của Ngưu Đầu Tông. Bia văn của Huyền Tố liệt kê năm người đệ tử: Pháp Kính Ngô Trung, Pháp Khâm Kính Sơn, Pháp Lệ, Pháp Hải, và Huệ Đoan. Thêm vào đó, nó cũng liệt kê tên và danh hiệu của 11 vị cư sĩ hộ trì nổi tiếng, vài vị trong số đó, có lẽ là tất cả, đều có giữ chức vị ở Nhuận Châu vào thời điểm đó hay thời điểm khác. Cuối cùng, có hai vị Tăng khác và một vị cư sĩ đã được đề cập trước đây trong văn bia, cùng với tác giả văn bia Lý Hoa, người đã liệt kê chính mình như là một đệ tử thân tín của Huyền Tố. Tất cả những chi tiết này chứng minh cho chúng ta thấy Thiền phái Hạc Lâm rất thịnh hành kể từ đầu thế thứ VIII.
4) Kính Sơn Phái: Đứng đầu bởi Kính Sơn Pháp Khâm, đệ tử của Huyền Tố. Kính Sơn là tên của một Thiền phái phụ do Thiền sư Pháp Khâm Kính Sơn sáng lập vào khoảng giữa thế kỷ thứ VIII. Trong khi Ngưu Đầu Sơn Phái và Phật Quật Phái hầu như không để cho có cái nhìn sáng tỏ vào trong những thực tế lịch sử của họ mà chỉ cho chúng ta một cái nhìn thoáng qua nhất vào thời giáo pháp của họ, thì hai dòng phụ khác của Ngưu Đầu tông được biết đến rất nhiều chi tiết hơn. Thật vậy, cuộc đời của Kính Sơn Pháp Khâm đều được biết đến nhờ những văn bia dài được bảo tồn trong Quán Đường Văn (toàn bộ tác phẩm đời nhà Đường). Tác phẩm đầu tiên trong các tác phẩm này nói riêng là một tài liệu cực kỳ quan trọng cho nội dung giáo pháp và chi tiết tiểu sử, Hơn nữa, nhiều đệ tử của ông được biết đến qua những bia văn và những tài liệu đương thời khác. Mặc dầu có những mâu thuẫn bên trong và những vấn đề khác làm cho những nguồn tài liệu này không thể sử dụng được cho các mục đích hiện tại, nhưng chính sự hiện hữu tồn tại của các mâu thuẫn và những vấn đề khác trong tự thân chúng đã là một đầu mối quan trọng cho vai trò có thể có của Ngưu Đầu Tông. Trong tất cả các đệ tử của Pháp Khâm, nghĩa là trong một số ít người có tiểu sử được biết đến, Sùng Huệ của chùa Chương Tín ở Trường An không gì nghi ngờ là đệ tử lỗi lạc nhất trong đời của Pháp Khâm. Bên cạnh đó, sự tiếp xúc giao thiệp với Mã Tổ và Thạch Đầu Hy Thiên vẫn được tiếp tục như thời của Thiền sư Huyền Tố, nhưng sự thăm viếng thành công đến với triều đình hoàng gia của Pháp Khâm cũng hết sức quan trọng. Vài thập niên trước đó, một cuộc thăm viếng như vậy có thể đã có cơ duyên trọng yếu trong sự thành lập một tông phái Phật giáo; chúng ta có thể chỉ lấy làm lạ rằng chủ trương chia khu vực chính trị trong những vùng tự trị mới của xã hội Trung Hoa sau cuộc nổi loạn của tướng An Lộc Sơn đã thay đổi mạnh mẽ ảnh hưởng của sự ủng hộ của hoàng gia. Ngoài ra, Pháp Khâm còn có một vài đệ tử mà sau đó đã theo học với các Thiền sư nổi tiếng khác như Phục Ngưu Tự Tại, Thiên Hoàng Đạo Ngộ, và có lẽ Dược Sơn Duy Nghiễm. Trên thực tế, khuynh hướng này không bị giới hạn đối với Kính Sơn phái của Ngưu Đầu Tông, vì đệ tử của Huyền Tố là Siêu Ngạn và đệ tử của Huệ Trung là Phù Dung Thái Dục cả hai đều học dưới Mã Tổ Đạo Nhất. Tất cả những chi tiết này chứng minh cho chúng ta thấy Thiền phái Kính Sơn rất thịnh hành kể từ đầu thế thứ VIII. Tưởng cũng nên chú ý ở đây là có một văn bia khác còn tồn tại được viết bởi Lý Cát Phủ cho Pháp Khâm bao gồm lời phát biểu sau đây về đặc tính của Ngưu Đầu Tông: "Sau sự diệt độ của Như Lai thì tâm ấn được tiếp nối truyền thừa qua 28 vị Tổ cho đến Bồ Đề Đạt Ma, người đã truyền bá đại pháp rộng rãi và truyền nó lại cho các đệ tử sau này. Đầu tiên những đệ tử sau này tự hợp thành hai tông 'Bắc' và 'Nam'. Hơn nữa, trong đời thứ ba kể từ Tổ Bồ Đề Đạt Ma, pháp được truyền cho Đạo Tín. Đạo Tín truyền cho Pháp Dung, Pháp Dung truyền cho Thiền sư Hạc Lâm Mã Tố (Huyền Tố), và Mã Tố truyền cho Kính Sơn Pháp Khâm hay Thiền sư Quốc Nhất. Đây là một giáo pháp riêng biệt bên ngoài của hai tông 'Bắc và Nam'".

Giáo Pháp của Ngưu Đầu Tông
Trong khi Bắc tông và Nam tông biểu trưng cho hai phái hay hai lối giải thích khác nhau đã phát triển dưới sự giám hộ dạy dỗ của Hoằng Nhẫn, thầy của cả Thần Tú ở phương Bắc lẫn Huệ Năng ở phương Nam. Bắc tông, vốn rõ ràng là có ảnh hưởng ưu thế ban đầu, với giáo lý cơ bản là "Tiệm ngộ" cho pháp hành trì tâm linh; còn Nam tông chủ trương giáo pháp "Đốn ngộ" cấp tiến và xác thực hơn. Pháp Dung là đệ tử của Tứ Tổ Đạo Tín, dầu không được kế thừa pháp, ông cũng đã sáng lập Ngưu Đầu tông trước Bắc tông của Thần Tú và Nam tông của Huệ Năng rất lâu. Và mặc dầu nó bắt nguồn từ truyền thống Trung Quán ở miền Nam Trung Hoa, nhưng giáo pháp cơ bản của nó là tương tự với giáo pháp của Thiền Nam tông. Tuy nhiên, Ngưu Đầu tông rõ ràng thực chất là có tình chất quá độ hay chuyển tiếp trong nỗ lực siêu việt khỏi tính bè phái của Bắc chống lại Nam tông và tạo ra một loaị giáo pháp và kiểu mẫu hành trì thích hợp cho thời đại mới. Ngưu Đầu tông nhấn mạnh đến việc nó chống lại giác quán của Bắc tông. Theo Ngưu Đầu tông, nếu bạn muốn đạt được sự thanh tịnh của tâm, vậy thì hãy nỗ lực trong bối cảnh của vô tâm. Duy trì sự tịch tĩnh bằng tâm là vẫn không siêu việt được cái bệnh vô minh. Sự thâm nhập của trí huệ nơi mình sẽ đáp ứng lại các pháp và luôn luôn được tập trung vào hiện tại tức thì. Sự giác ngộ về cơ bản luôn hiện hữu và không cần phải duy trì gìn giữ; ảo tưởng phiền não về cơ bản là không hiện hữu tồn tại và không cần phải loại trừ. Giáo lý Ngưu Đầu tông cũng nhấn mạnh rằng bậc Thánh sử dụng trí huệ kỳ diệu của vô tâm để tương thích với chân lý vô tướng của Tánh không. Trong và ngoài cả hai đều được xóa bỏ; các điều kiện nhân duyên hay đối tượng của nhận thức và trí huệ cả hai đều thanh lặng. Trí huệ chỉ là một cái tên cho sự chiếu sáng của tri kiến, làm sao nó có thể tương đương với trí huệ bát nhã, vốn siêu việt nhận thức, nghĩa là giác quán chư pháp bằng trí huệ. Tóm lại, thật ra giáo pháp Ngưu Đầu tông có liên hệ với cả giai đoạn sớm hơn lẫn giai đoạn trễ hơn sau này của Thiền. Người ta tin rằng nhiều vị Thiền sư Ngưu Đầu tông đã có liên kết với Mã Tổ Đạo Nhất và Thạch Đầu Hy Thiên, nhưng sự liên kết này với Thiền phái Bắc tông của Thần Tú lại quá ít ỏi. Nói tóm lại, tuy là sự phát triển của giáo lý Ngưu Đầu tông nhờ vào những phát triển trước đó, nhưng đồng thời nó vẫn bao gồm lý tưởng duy nhất và hoàn toàn độc lập của riêng.

Sự độc lập Ngưu Đầu Tông đối với hai phái Thiền Bắc tông và Nam 
Bắc tông và Nam tông Thiền biểu trưng cho hai phái hay hai lối giải thích khác nhau đã phát triển dưới sự giám hộ của Hoằng Nhẫn, thầy của cả Thần Tú ở phương Bắc lẫn Huệ Năng ở phương Nam. Bắc tông, vốn rõ ràng là có ảnh hưởng ưu thế ban đầu, đã dạy một giáo lý cơ bản là "tiệm ngộ" cho pháp hành trì tâm linh, còn Nam tông duy trì giáo pháp Thiền "đốn ngộ" tiến bộ và xác thực hơn. Bắt đầu sự tiến triển của Nam tông cho đến đúng uy thế của nó là cuộc vận động chống Bắc tông mãnh liệt bởi đệ tử của Huệ Năng là Thần Hội, và kết quả của cuộc vận động này khiến nhiều môn đồ của Thiền rời bỏ Bắc tông theo ủng hộ nhóm Thiền Nam tông của Huệ Năng. Ngưu Đầu tông đã có trước và vì thế nó đứng ra ngoài cuộc vận động này của Thần Hội. Ngưu Đầu tông bắt nguồn từ truyền thống Trung Quán ở phía Nam Trung Hoa, nhưng giáo pháp cơ bản của nó là tương tự với giáo pháp của Thiền Nam tông (Huệ Năng). Tuy vậy, tưởng cũng nên nhắc lại ở đây là có một văn bia khác còn tồn tại được viết bởi Lý Cát Phủ cho Pháp Khâm bao gồm lời phát biểu sau đây về đặc tính của Ngưu Đầu Tông: "Sau sự diệt độ của Như Lai thì tâm ấn được tiếp nối truyền thừa qua 28 vị Tổ cho đến Bồ Đề Đạt Ma, người đã truyền bá đại pháp rộng rãi và truyền nó lại cho các đệ tử sau này. Đầu tiên những đệ tử sau này tự hợp thành hai tông 'Bắc' và 'Nam'. Hơn nữa, trong đời thứ ba kể từ Tổ Bồ Đề Đạt Ma, pháp được truyền cho Đạo Tín. Đạo Tín truyền cho Pháp Dung, Pháp Dung truyền cho Thiền sư Hạc Lâm Mã Tố (Huyền Tố), và Mã Tố truyền cho Kính Sơn Pháp Khâm hay Thiền sư Quốc Nhất. Đây là một giáo pháp riêng biệt bên ngoài của hai tông 'Bắc và Nam'." Theo Tông Cảnh Lục, một hôm, có một cư sĩ hộ trì hỏi đệ tử của Thiền sư Trí Oai là An Quốc Huyền Đỉnh: "Ngài là một người theo Bắc tông hay Nam tông?" An Quốc Huyền Đỉnh đáp: "Ta không phải là một người theo hoặc là của Bắc tông, hoặc là của Nam tông. Tâm là tông của ta." Ở đây, An Quốc Huyền Đỉnh đang nói về một "tông" theo cái nghĩa của một thực thể môn phái, nhưng chữ "tông" còn chỉ giáo pháp hay nguyên lý giáo pháp. Như vậy, câu hỏi là liệu ngài theo giáo pháp của người phương Bắc hay người phương Nam, và câu trả lời là giáo pháp chân chính của Phật giáo liên quan đến tâm và siêu việt bất kỳ giáo pháp nào mà chúng ta có thể bám vào. Kỳ thật, không hề có chứng cứ rằng các thành viên của Ngưu Đầu tông xem hoặc là Thiền Bắc tông hoặc là Thiền Nam tông cao hơn tông kia. Theo Tống Cao Tăng Truyện, một thi Tăng thuộc Ngưu Đầu tông là Hạo Nhiên đã viết bài tán thán hai vị Tổ sư Huệ Năng và Thần Tú:
"Tâm của hai vị Tổ sư
Giống như đôi vầng nhật nguyệt.
Tứ phương không mây giăng.
Hiển hiện trên thinh không.
Tam thừa đi cùng đường;
Vô biên pháp là một.
Phân thành Nam Bắc tông
Là lỗi lầm ngôn biện".

Contact Information

Phone
Array
Address Array
This entry was posted in . Bookmark the permalink.