Additional Info
(慧忠, Echū, 683-769): Vị tăng của Ngưu Đầu Tông Trung Quốc, sống dưới thời nhà Đường, xuất thân vùng Thượng Nguyên (上元), huyện Giang Ninh, Nhuận Châu (潤州, Giang Tô), họ Vương (王). Năm 705 sư xuất gia tại Trang Nghiêm Tự (莊嚴寺) ở Kim Lăng lúc 23 tuổi, sau đó nghe thiền sư Trí Oai ra đời bèn đến yết kiến.
Oai vừa thấy Sư, nói:
- Sơn chủ đến rồi!
Sư cảm ngộ ý chỉ sâu kín, Trí Oai bèn cho làm thị giả thân cận, theo hầu hạ Trí Oai (智威) ở Ngưu Đầu Sơn (牛頭山) vùng Kim Lăng (金陵), và kế thừa dòng pháp của vị này. Sau đó, sư chia tay với thầy, đi du hóa khắp nơi, rồi đến trú tại Diên Tộ Tự (延祚寺).
Các quyển Tống Cao Tăng Truyện và Cảnh Đức Truyền Đăng Lục trình bày tường thuật đối đáp hơi khác nhau giữa sư và Trí Oai, người mà ngay sau cuộc đối đáp được sư nhận làm thầy của mình. Không thể nói sư đã ở núi Ngưu Đầu bao lâu và liệu sư có rời bỏ núi để làm du Tăng khất sĩ trước khi nối nghiệp ở đó hay không.
Trí Oai thấy dây hoa Lăng tiêu (còn gọi là tử oai) ở cụ giới viện, vào hạ bị bỏ phế điêu tàn. Có người định chặt bỏ, nhân đó Trí Oai can bảo:
- Đừng chặt, khi Huệ Trung trở về thì dây tử oai đó đâm chồi lại.
Đến khi Sư về thì ứng nghiệm như lời dự đoán.
Sau khi cử Huệ Trung nắm quyền ở núi Ngưu Đầu, Trí Oai đã di chuyển đến chùa Duyên Tộ ở Kim Lăng, nơi sư đã giảng dạy trong ít nhất một khoảng thời gian ngắn trước khi thị tịch. Huệ Trung vẫn phụ trách hoằng pháp và truyền dạy đệ tử ở núi Ngưu Đầu cho đến khi sư mất, và như vậy coi như sư là người đã sáng lập ra Ngưu Đầu Sơn Phái. Thường ngày sư sống rất đơn giản, chỉ một bình bát và một y mà thôi, đồ dùng chỉ có một cái chõ để đổ xôi. Thường có hai kho chứa lúa cho tăng dùng, kẻ trộm hay rình mò thì có hổ gìn giữ cho.
Huyện lệnh Trương Tốn lên núi yết kiến, hỏi Sư:
- Có đồ đệ nào?
Sư đáp:
- Có dăm ba người.
Tốn hỏi:
- Làm sao gặp được?
Sư gõ thiền sàng, có ba con cọp gầm thét vừa bước ra. Tốn sợ hãi thối lui.
Đến năm 742, theo lời thỉnh cầu của quan trưởng huyện, sư quay trở lại chùa Trang Nghiêm, nơi sư đã thọ giới.
Sư đã làm việc vất vả trong việc tu sửa chùa, vốn đã bị hại không còn sử dụng được nữa từ lúc cao điểm của nó thời nhà Lương, sư xây thêm một Pháp Đường mới, một thành phần rất quan trọng trong kiến trúc Thiền viện vào những năm sau này.
Pháp đường được xây riêng biệt ở phía đông chánh điện. Đã có sẵn cây cổ thụ, bầy chim khách đóng tổ trên đó, công nhân sắp đốn cây. Sư báo loài chim khách: “Sắp xây pháp đường ở đây, các người sao chẳng đi mau?”. Nói xong, bầy chim khách liền dời tổ qua cây khác. Lúc mới xây nền có hai thần nhân trấn giữ bốn góc, lại ngầm giúp làm việc ban đêm, chẳng mấy hôm xong việc.
Từ đó học chúng tập trung rất đông và người kế thừa dòng pháp có đến 34 người.
Sư thường có kệ dạy chúng an tâm, kệ rằng:
Nhân pháp song tịnh,
Thiện ác lưỡng vong.
Chơn tâm chơn thật,
Bồ đề đạo tràng.
Dịch:
Ngã pháp đều rỗng,
Thiệc ác quên hết.
Chơn tâm chơn thật,
Bồ đề đạo tràng.
Năm Đại Lịch thứ ba (大曆, 768 - Đường Đại Tông), trước thạch thất cây treo chõ, dây mây móc áo bỗng nhiên khô chết giữa nắng hạ. Năm thứ tư (769) ngày 15 tháng 6 họp chúng bố tát xong, Sư sai thị giả cạo sạch tóc tắm rửa. Đến tối có mây lành bao phủ tịnh xá Sư, trên không lại nghe tiếng nhạc trời. Tới sáng sớm Sư thản nhiên ngồi hóa, bấy giờ mưa to gió lớn gây sấm sét quật ngã cây rừng, lại có cầu vồng trắng bắc qua các hang núi. Năm thứ năm (770), mùa xuân trà tỳ thu xá lợi nhiều không kể xiết. Sư thọ 87 tuổi.
Bộ Thích Môn Chánh Thống (釋門正統) quyển 8 cho rằng Nam Dương Huệ Trung Thiền Sư (南陽慧忠禪師) là nhân vật đồng nhất với sư, tuy nhiên hai nhân vật này hoàn toàn khác nhau.
Theo Tông Cảnh Lục, Huệ Trung được cho là đã viết hai tác phẩm, một với nhan đề Kiến Tánh Tựa (Tựa Đề Thấy Phật Tánh) và một tác phẩm khác có nhan đề Hành Lộ Nan (Đi Trên Con Đường Tu Đạo Khó Làm Sao!). Cũng theo Tông Cảnh Lục, Huệ Trung có 36 đại đệ tử, đã đi giảng dạy giáo pháp ở khá nhiều nơi khác nhau khắp miền đông nam Trung Hoa, nhưng chỉ có ba vị có chi tiết về tiểu sử. Và chỉ có một trong số các đệ tử của Huệ Trung được biết đến qua một văn bia đại để là cùng thời: Thái Bạch Quán Tông (731-809). Văn bia của vị này có một giá trị nào đó trong sự nghiên cứu lịch sử và giáo thuyết Ngưu Đầu tông. Tuy nhiên, không may là không còn một tài liệu nào còn tồn tại nói về chính Huệ Trung.
|