Additional Info
(佛窟惟則, Bukkutsu Isoku, 751-830): Vị tăng của Ngưu Đầu Tông Trung Quốc, còn gọi là Di Tắc (遺 則), họ Trưởng Tôn (長孫), xuất thân vùng Kinh Triệu (京 兆, Trường An), nơi mà ông nội của sư đã làm quan của triều đình. Tuy nhiên, cha sư đã rời bỏ Trường An mà dời về Kim Lăng.
Sư đã trở thành Phật tử và sau đó làm đệ tử của Thiền sư Huệ Trung khi tuổi còn rất trẻ. Sư xuất gia thọ cụ túc giới khoảng năm 23 tuổi, theo làm môn hạ của Huệ Trung (慧 忠) thuộc Ngưu Đầu Tông. Tuy nhiên, có sự sai sót về niên đại vì theo tài liệu còn sót lại thì Huệ Trung đã tịch từ năm Phật Quật mới 19 tuổi, như vậy có lẽ sư đã thọ cụ túc giới trước năm sư được 19 tuổi?. Phật Quật là một nhân vật thiên tài về thư pháp và những bản chép tay của sư được tán thán rộng rãi và được tìm kiếm khắp nơi, ngay cả khi sư còn sống.
Sau khi đại ngộ, sư vào trong hang núi Phật Quật (佛窟) trên Thiên Thai Sơn (天台山), tỉnh Triết Giang, kiến lập tinh xá và trở thành vị tổ của Học Phái Phật Quật, vì vậy mà sư có tên Phật Quật. Trong niên hiệu Nguyên Hòa (806-820 - Đường Hiến Tông), pháp tịch Sư thạnh dần. Sư đã lưu lại nơi này trên 40 năm cho đến khi sư thị tịch.
Một hôm Sư dạy chúng: “Trời đất không có vật gì, ngã (ta) không phải vật, tuy nhiên chưa từng không có vật. Ở đây thì thánh nhân như bóng, trăm năm như mộng, có ai sanh tử đâu?. Vì thế bậc chí nhân chiếu soi chỉ có một mình, hay làm chủ muôn vật. Ta biết rồi, các ông biết chưa?”.
Có tăng hỏi:
- Thế nào là mũi tên Na la duyên?
Sư đáp:
- Trúng đích.
Vào ngày 15 mùa hè năm thứ 4 niên hiệu Thái Hòa (太和) năm 830, Sư chợt báo môn nhân:
- Các ông phải tự cố gắng. Ta có nói chi đâu?
Sau đó Sư ngồi yên thị tịch. Thọ 80 tuổi, tuổi lạp 58.
Sau khi thầy sư là Huệ Trung thị tịch, có lẽ dường như có khả năng là những vị thầy khác cũng đã có ảnh hưởng đến sư. Theo Tống Cao tăng Truyện và các bảng danh mục của những người hành hương Nhật Bản đến Trung Hoa cho thấy Phật Quật đã sưu tập ít nhất là một tác phẩm đặc trưng của Ngưu Đầu Tông, cũng như một số tác phẩm khác không chắc về bản chất như:
1) Tự Tập Dung Tổ Sư Văn (融祖師文,Bài viết của Tổ sư Pháp Dung, với lời tựa trong ba tập.
2) Bảo Chí Thích Đề Nhị Thập Tứ Chương (寳誌釋題, giải thích các tựa đề tác phẩm của Bảo Chí trong 24 phẩm).
3) Nam Du Phó Đại Sĩ Di Phong Tự (南遊傅 大士序, tựa đề cho di sản tôn giáo của Bồ tát Phó Hấp, người đi lang thang về hướng Nam),
4) Vô Sanh Đẳng Nghĩa (無生等義, ý nghĩa của vô sanh và những giáo lý khác được đưa ra trong danh mục Nhật Bản như là vô sanh nghĩa trong hai tập),
5) Phật Quật Tập (Tuyển tập giáo pháp của Phật Quật trong một tập),
6) Phật Quật Hòa Thượng Hành Trạng (Đại cương hoạt động Tăng sĩ của Thiền viện Phật Quật trong một tập),
7) Phật Quật Đại Sư Tả Chân tán (Lời tán tụng chân dung của đại sư Phật Quật trong một tập),
8) Hoàn Nguyên Tập (Tuyển tập trở về nguồn cội, trong ba tập). Không may là hiện nay không có văn bản nguyên tác nào còn sót lại; một vài bộ được liệt kê trên đây rõ ràng không phải do Phật Quật viết mà là tuyển tập được góp nhặt và đề tựa Phật Quật. Theo Tông Cảnh Lục và một tác phẩm khác của Thiền sư Diên Thọ, các tác phẩm còn lại duy nhất của Phật Quật vẫn còn hiện hữu là những đoạn trích từ Vô Sanh Nghĩa và Hoàn Nguyên Tập. Cuối cùng, chúng ta có thể để ý rằng theo Tông Cảnh Lục thì chùa Phật Quật trên núi Thiên Thai đã bị hủy hoại trong thời kỳ bị ngược đãi năm 845 và chùa bị các đạo sĩ Lão giáo tiếp quản. Chỉ còn tấm bia của Phật Quật là được bảo lưu giữ gìn, được đưa tới chỗ an toàn bởi một vị sư Phật giáo vào năm 865.
[X. Tống Cao Tăng Truyện Q.10; Cảnh Đức Truyền Đăng Lục Q.4; Thích Thị Nghi Niên Lục Q.5]
|