Additional Info
智 通 (662-738). Thiền tăng đời Đường, họ Đường, người xứ An Phong, Thọ Châu (nay là phía nam huyện Thọ, tỉnh An Huy) Trung Quốc. Theo Kinh Pháp Bảo Đàn, chương bảy, ban đầu sư xem kinh Lăng Già hơn một ngàn lần, chẳng hiểu ý chỉ “Tam thân, Tứ trí”. Sư đến tham lễ tổ Huệ Năng, cầu xin giải thích nghĩa ấy.
Tổ bảo:
- Ba thân là Thanh Tịnh Pháp Thân, đó là tánh của ông, Viên Mãn Báo Thân là trí của ông, Thiên Bá Ức Hóa Thân là hạnh của ông vậy. Nếu lìa bổn tánh riêng nói ba thân, tức gọi có thân mà không trí, nếu ngộ được ba thân không có tự tánhtức là rõ ba trí Bồ Đề”. Hãy lắng nghe tôi nói kệ:
Tự tánh cụ tam thân
Phát minh thành tứ trí
Bất ly kiến văn duyên
Siêu nhiên đăng Phật địa
Ngô kim vị nhữ thuyết
Đế tín vĩnh vô mê
Mạc học trì cầu giả
Chung nhật thuyết bồ đề
Dịch:
Tự tánh đủ ba thân
Phát minh thành tứ trí
Chẳng lìa duyên thấy nghe
Siêu nhiên lên Phật địa
Nay tôi vì ông nói
Tin chắc hằng không mê
Chớ học kẻ tìm cầu
Suốt ngày nói bồ đề
Dịch:
Tự tánh đủ ba thân
Phát minh thành tứ trí
Chẳng lìa duyên thấy nghe
Siêu nhiên lên quả Phật
Nay tôi vì ông nói
Tin chắc hằng không mê
Chớ nhọc người tìm cầu
Trọn ngày nói Bồ Đề.
Ngài Trí Thông lại thưa rằng:
- Về nghĩa Tứ Trí có thể nghe được chăng?
Tổ bảo:
- Đã hiểu ba thân liền rõ tứ trí, sao lại hỏi ư?. Nếu lìa ba thân riêng nói tứ trí, đây gọi là có trí mà không thân, tức đây có trí lại thành vô trí”.
Tổ bèn nói kệ:
Đại viên cảnh trí tánh thanh tịnh
Bình đẳng tánh trí tâm không bệnh
Diệu quán sát trí thấy không công
Thành sở tác trí đồng Viên Cảnh
Ngũ bát lục thất quả nhơn chuyển
Chỉ dùng danh ngôn không thật tánh
Nếu ngay chỗ chuyển không dấy niệm
Ngay nơi ồn náo hằng đại định.
Như trên nói chuyển thức thành trí, trong kinh nói: “Chuyển năm thức trước làm thành Sở Tác Trí, chuyển thức thứ sáu làm Diệu Quán Sát Trí, chuyển thức thứ bảy làm Bình Đẳng Tánh Trí, chuyển thức thứ tám làm Đại Viên Cảnh Trí. Tuy thức thứ sáu, thức thứ bảy là ở trong nhơn chuyển, còn năm thức trước và thức thứ tám là trên quả chuyển, chỉ chuyển tên mà không chuyển thể” .
Huệ Năng giải đáp rành rõ, sư ngay nơi lời nói đốn ngộ, dùng kệ ngợi khen:
Tam thân nguyên ngã thể
Tứ trí bổn tâm minh
Thân trí dung vô ngại
Ứng vật nhậm tùy hình
Khởi tu giai vọng động
Thủ trụ phỉ chơn tinh
Diệu ngôn nhân sư hiểu
Chung vong ô nhiễm danh
Dịch:
Ba thân nguyên thể ta
Tứ trí vốn tâm sáng
Thân trí dung không ngại
Ứng vật mặc tùy hình
Khởi tu đều vọng động
Giữ trụ trái chân tính
Diệu chỉ nhờ Thầy rõ
Trọn quên tên nhiễm ô
Sau đó, sư trở về Thọ Châu.
|