TS Hoa Đình Thuyền Tử Đức Thành

Personal Information

Danh Tánh
TS Hoa Đình Thuyền Tử Đức Thành
Gender ♂️ Male

Hành Trạng

Additional Info

HÒA THƯỢNG HOA ĐÌNH THUYỀN TỬ

PHÁP TỰ ĐỜI THỨ BA của THANH NGUYÊN HÀNH TƯ

PHÁP TỰ của DƯỢC SƠN DUY NGHIỄM

Sư tên Đức Thành, là pháp tự của Dược Sơn. Sư thường tại bến Hoa Đình Ngô Giang, thả một chiếc thuyền nhỏ, người đương thời gọi là Hòa thượng Thuyền Tử (Hòa thượng Chèo Thuyền). Sư thường nói với bạn đồng tham là Đạo Ngô rằng:

- Sau này có vị tọa chủ nào lanh lợi chỉ đến đây một người.

Sau đó Đạo Ngô kích phát, khuyên Hòa thượng Thiện Hội ở Kinh Khẩu đến tham yết sư. Sư hỏi:

- Tọa chủ trụ ở chùa nào?

Thiện Hội đáp:

- Chùa (tự) thì không trụ. Mà trụ thì không giống (tự).

Chú: Thiện Hội chơi chữ vì chữ Tự (寿)đầu là chùa,còn chữ Tự (似) sau là tương tự, tức giống.

Sư hỏi:

- Không tương tự thì tương tự cái giống gì?

Thiện Hội đáp:

- Trước mắt không có tương tự.

Sư nói:

- Học được từ nơi nào vậy?

Hội đáp:

- Nơi chẳng phải tai mắt có thể đến được.

Sư cười nói:

- Một câu hiệp đầu ngữ (câu nói hồ đồ) muôn năm cây cột lừa. Rời lưỡi câu ba tấc, nói mau, nói mau !

Chú: Nguyên văn ‘Hệ lư quyết’, nghĩa đen là cây cột lừa bên đường. Thiền tông dùng từ này dụ cho sự cột trói khi người học chấp trước vào một kiến giải, dù kiến giải đó có thâm sâu cách mấy đi nữa. Bỏ nhợ câu ngàn thước, ý tại đầm sâu (bắt con cá vảy vàng).

Thiện Hội nghĩ định mở miệng, sư dùng cây chèo đập té xuống sông, nhân đó mà đại ngộ. Sư ngay đó lật úp thuyền xuống nước mà chết. Không biết sau rồi sao nữa.

PHẦN PHỤ LỤC

Thiền sư Thuyền Tử Đức Thành ở Hoa Đình Tú Châu, tiết tháo cao vợi, độ lượng bất quần. Từ khi được ấn tâm nơi Dược Sơn sư cùng Đạo Ngô, Vân Nham làm bạn đồng đạo thâm giao. Kịp khi rời Dược Sơn, sư nói với hai đồng chí hữu rằng:

- Các ông nên y cứ mỗi người một phương, kiến lập tông chỉ của Dược Sơn. Tôi bản tính mộc mạc, chỉ thích sơn thủy, vui tình tự khiển, chẳng có được gì. Sau này biết chỗ của tôi ở, nếu gặp tọa chủ nào lanh lợi, chỉ một người lại, hoặc có thể dùi mài, trao cho y sở đắc một đời, để báo ơn cho tiên sư.

Nói đoạn liền chia tay nhau.

Thời nhân chẳng biết tiết tháo cao vợi của sư, nên gọi là Hòa thượng Chèo Đò (Thuyền Tử Hòa thượng). Ngày kia, sư đang đậu thuyền bên bờ sông ngồi chơi thì có vị quan nhân hỏi:

- Thế nào là công việc thường ngày của Hòa thượng?

Sư cất mái chèo lên nói:

- Lãnh hội không?

Vị quan nhân đáp:

- Không lãnh hội.

Sư nói:

- Khuấy chèo động sóng trong, cá vảy vàng hiếm gặp.

Chú: Ý nói từ lâu chờ đợi người ngộ pháp mà hiếm khi gặp.

Sư có kệ rằng:

Bài 1

Nguyên văn:

三 十 年 來 坐 釣 臺

鉤 頭 往 往 得 黄 能

今 鱗 不 遇 空 勞 力

收 取 絲 綸 歸 去 來

Phiên âm:

Tam thập niên lai tọa điếu đài

Câu đầu vãng vãng đắc hoàng năng (1)

Kim lân bất ngộ không lao lực

Thâu thủ ty luân qui khứ lai

Tạm dịch:

Ba mươi năm nay bến câu ngồi

Đầu lưỡi lâu lâu được ba ba

Vảy vàng không gặp lao lực uổng

Cuốn phăng dây nhợ quay về thôi.

Chú (1): ‘Hoàng năng’ là con ba ba thần. Theo sách Tả Truyện khi xưa vua Nghiêu giết thần cá cổn ở Vũ Sơn. Thần này hóa ra con ba ba thần ba cẳng lặn xuống vực Vũ Uyên. Cũng có thuyết nói thần này hóa ra con gấu lặn xuống Vũ Uyên, nhưng xét thấy vô lý vì con gấu làm sao sống dưới vực sâu. Có lẽ do con ba ba thần được viết bằng chữ 'Năng' có ba chấm ở dưới, bị chấm lầm thêm một chấm thành chữ 'Hùng' là gấu chăng?

Bài 2

Nguyên văn:

千尺 絲 綸 直 下 垂

一 波 纔 動 萬 波 随

夜 静 水 寒 魚 不 食

滿 船 空 載 月 明 歸

Phiên âm:

Thiên xích ty luân trực hạ thùy

Nhất ba tài động vạn ba tùy

Dạ tịnh thủy hàn ngư bất thực

Mãn thuyền không tải nguyệt minh qui.

Tạm dịch:

Ngàn thước nhợ dây buông thẳng câu

Đợt sóng vừa nhô muôn sóng vờn

Nước lạnh đêm khuya không cá đớp

Đầy thuyền chở rỗng ánh trăng thâu.

Bài 3

Nguyên văn:

三 十 年 來 海 上 遊

水 清 魚 現 不 呑 鉤

釣 竿 斫 蛊 重 栽 竹

不 計 功 程 得 便 休

Phiên âm:

Tam thập niên lai hải thượng du

Thủy thanh ngư hiện bất thôn câu

Điếu can chước tận trùng tài trúc

Bất kế công trình đắc tiện hưu

Tạm dịch:

Ba mươi năm qua trên biển dồi

Nước trong cá hiện chẳng ăn mồi

Cần câu gảy hết trồng lại trúc

Chẳng kể công trình được mới thôi.

Bài 4

Nguyên văn:

有 一 魚 兮 偉 莫 裁

混 融 包 納 信 奇 哉

能 變 化 吐 风 雷

下 線 何 曾 釣 得 來

Phiên âm:

Hữu nhất ngư hề vĩ mạc tài

Hỗn dung bao nạp tín kỳ tai

Năng biến hóa, thổ phong lôi

Hạ tuyến hà tằng điếu đắc lai

Tạm dịch:

Có con cá kia lớn ‘dễ tào’

Hỗn dung bao nạp lạ làm sao

Hay biến hóa, nhả gió sét

Thả nhợ chưa từng câu được nào.

Bài 5

Nguyên văn:

別 人 衹 看 採 芙 蓉

香 氣 長 粘 遶 指 风

兩 岸 映 一 船 紅

何 曾 解 染 得 虚 空

Phiên âm:

Biệt nhân chỉ khan thái phù dong

Hương khí trường niêm nhiễu chỉ phong

Lưỡng ngạn ánh, nhất thuyền hồng

Hà tằng giải nhiễm đắc hư không

Tạm dịch:

Người ngoài chỉ thấy hái phù dong

Hương khí dính hoài quanh chỉ phong

Hai bờ chói, một thuyền hồng

Chưa từng giải nhiễm được hư không.

Bài 6

Nguyên văn:

問 我 生 涯 衹 是 船

四 孫 各 自 親 機 緣

不 由 地 不 由 天

除 却 蓑 衣 無 可 傳

Phiên âm:

Vấn ngã sanh nhai chỉ thị thuyền

Tử tôn các tự đổ cơ duyên

Bất do địa, bất do thiên

Trừ khước thoa y vô khả truyền

Tạm dịch:

Hỏi tớ sanh nhai chí nhờ thuyền

Cháu con đều tự thấy cơ duyên

Chẳng do đất, chẳng tại trời

Trừ áo tơi ra chẳng thể truyền.

Về sau, Đạo Ngô đến Kinh Khẩu gặp lúc Giáp Sơn đang thượng đương thì có tăng hỏi:

- Thế nào là pháp thân?

Sơn đáp:

- Pháp thân không hình tướng.

Hỏi:

- Thế nào là pháp nhãn?

Sơn đáp:

- Pháp nhãn không vết trầy.

Đạo Ngô vụt cười ngất, Sơn bèn bước xuống tòa thỉnh hỏi Đạo Ngô:

- Mỗ đây vừa rồi đối đáp với ông tăng chắc có điều gì không đúng, đến nỗi khiến thượng tọa cười ngất. Xin thượng tọa đừng tiếc sẻn từ bi chỉ giáo !

Ngô nói:

- Hòa thượng xuất thế dạy chúng sanh nhưng chưa được chỉ giáo.

Sơn nói:

- Mỗ đây nói chỗ nào không đúng, xin thuyết phá giùm !

Ngô nói:

- Mỗ đây rốt lại cũng không nói, thỉnh Hòa thượng hãy đến chỗ Thuyền Tử ở Hoa Đình đi !

Sơn hỏi:

- Người ấy thế nào?

Ngô nói:

- Người ấy trên đầu không có miếng ngói che, dưới không có mảnh đất cắm dùi. Hòa thượng nếu đi, phải thay đổi y phục mà đến.

Sơn bèn giải tán đại chúng, sửa soạn hành trang đến thẳng Hoa Đình. Thuyền Tử vừa thấy liền hỏi:

- Đại đức trụ ở chùa nào?

Sơn nói:

- Chùa (tự) tức không trụ, trụ tức không giống (tương tự).

Chú: Đây là Sơn chơi chữ vì chữ ‘Tự’(奇)đầu nghĩa là chùa còn chữ ‘Tự’(似)cuối là tương tự.

Sư nói:

- Không giống thì giống cái gì?

Sơn nói:

- Không phải sự vật trước mắt.

Sư nói:

- Học ở đâu được vậy?

Sơn nói:

- Không phải chỗ mắt tai đến được.

Sư nói:

- Một câu hồ đồ ngữ, muôn kiếp cọc cột lừa.

Sư lại hỏi:

- Thả dây tơ ngàn thước, ý tại câu đầm sâu. Rời lưỡi câu ba tấc, ông sao không nói?

Sơn vừa định mở miệng liền bị đập một mái chèo té đùng xuống sông. Sơn vừa leo lên thuyền, sư lại nói:

- Nói ! Nói !

Sơn vừa định mở miệng, sư lại đánh. Sơn bỗng nhiên đại ngộ, liền gật đầu ba cái. Sư nói:

- Đầu cần dây nhợ tùy ông nắm, chẳng đụng chạm sóng trong, ý chỉ vốn khác.

Sơn liền hỏi:

- Quăng nhợ ném câu, ý chỉ sư thế nào?

Sư nói:

- Nhợ nổi phêu nước trong có thể biện biệt ý có không.

Sơn nói:

- Lời lẽ mang huyền ý mà không có thông lộ, đầu lưỡi đang nói mà không có nói.

Sư nói:

- Câu hết tận sóng sông, mới gặp cá vảy vàng.

Sơn bèn bịt tai. Sư nói:

- Như thế ! Như thế !

Rồi dặn rằng:

- Ông từ nay nên giấu thân nơi không dấu vết, chỗ không dấu vết chẳng giấu thân. Ta 30 năm nơi Dược Sơn chỉ rõ có việc này. Ông nay đã được, ngày sau không nên trụ chỗ chợ búa, xóm làng, mà nên hướng về nơi núi sâu, bên cạnh lưỡi bừa tìm một người, nửa kẻ tiếp tục đạo pháp, đừng để dứt tuyệt.

Sơn bèn từ giã ra đi mà cứ quay đầu lại nhìn mãi, sư bèn gọi:

- Xà-lê !

Sơn bèn quay đầu lại, sư cất mái chèo nói:

- Ông cho là còn có việc khác à?!

Nói xong lật úp thuyền xuống nước mà chết.

(Theo Ngũ Đăng Hội Nguyên quyển 5)

Contact Information

Phone
Array
Address Array
This entry was posted in . Bookmark the permalink.