Additional Info
Thiền Sư Tùng Thẩm Ở Triệu Châu
Pháp tự đời thứ ba của Nam Nhạc Hoài Nhượng
Pháp Tự Của Thiền Sư Nam Tuyền Phổ Nguyện
Thiền sư Tùng Thẩm ở viện Quan Âm (cũng gọi là Đông viện) tại Triệu Châu, là người Hác Hương Tào Châu (Nay là Tây bắc huyện Tào ở Sơn Đông, giáp giới tỉnh Hà Bắc), họ Hác. Lúc tuổi còn bé thơ, sư đã xuống tóc xuất gia tại viện Hỗ Thông của bổn châu, nhưng không thọ cụ túc giới, về sau sư tới Trì Dương tham yết thiền sư Nam Tuyền, chính gặp lúc Nam Tuyền nằm nghỉ trên giường. Nam Tuyền hỏi:
- Vừa từ đâu đến đấy ?
Sư đáp:
- Mới vừa rời viện Thoại Tượng.
Nam Tuyền hỏi:
- Có thấy Thoại Tượng không ?
Sư đáp:
- Không thấy Thoại Tượng nhưng thấy một Như Lai nằm duỗi.
Nam Tuyền lại hỏi:
- Ông là sa-di có chủ hay không có chủ ?
Sư đáp:
- Là sa-di có chủ.
Nam Tuyền hỏi:
- Chủ của ông ở tại đâu ?
Sư đáp:
- Gặp giữa mùa đông giá rét, con nguyện tôn thể Hòa thượng an khang.
Do vậy mà Nam Tuyền rất khí trọng Triệu Châu, cho làm đệ tử ruột .
*
Hôm nọ, sư hỏi Nam Tuyền:
- Đạo là cái gì ?
Nam Tuyền đáp:
- Tâm bình thường là đạo.
Sư hỏi:
- Kẻ học này có thể lấy tâm ấy làm mục tiêu nhắm tới và tu chứng không ?
Nam Tuyền nói:
- Một khi tư lượng thú hướng, khởi tâm tu tâm là sai trái và xa lìa đạo ấy.
Sư nói:
- Nếu đã không nghĩ đến thú hướng thì làm sao biết đạo ấy là đạo ?
Nam Tuyền nói:
- Đạo không thuộc phạm trù tri giải hay không tri giải. Tri giải thuộc vọng giác tức thuộc hư vô. Nếu chân chính thông đạt đạo tâm bình thường, thì ông sẽ cảm thấy tâm giống như thái không một thứ, trong suốt sáng láng, không che không chận, trong đó há còn gượng ép phân biệt phải trái sao ?
Sư nghe xong lời nói liền đốn ngộ huyền lý. Thế rồi sư đến Lưu Ly đàn ở Tung Nhạn thọ cụ túc giới, sau đó lại quay về núi Nam Tuyền.
Lại có một hôm, sư hỏi Nam Tuyền:
- Người đã ngộ rồi thì nên tu hành như thế nào ?
Nam Tuyền đáp:
- Xuống chân núi làm bò.
Sư nói:
- Đa tạ sư phụ chỉ giáo.
Nam Tuyền nói:
- Canh ba đêm qua ánh trăng thong dong đến song cửa sổ ta.
*
Ngày khác, Triệu Châu hỏi Nam Tuyền:
- Xin thầy cho một lời siêu tứ cú, tuyệt bách phi.
Nam Tuyền không nói gì hết mà rút lui về phương trượng. Triệu Châu nói:
- Thầy chúng ta thường thì nói một lời.
Thị giả bảo:
- Tốt hơn, ông đừng có nói cái đó.
Triệu Châu tát cho thầy thị giả một cái.
Bấy giờ Nam Tuyền đóng cửa phương trượng, và rải tro chung quanh, bảo chúng Tăng:
- Nếu các ông nói được một tiếng, cửa này sẽ mở.
Có nhiều người bày tỏ sở kiến, nhưng Nam Tuyền không thích ý của ai hết. Triệu Châu kêu lên:
- Trời ơi!
Nam Tuyền bèn mở cửa
*
Sư lại đến chỗ Bảo Thọ. Bảo Thọ thấy sư đến bèn leo lên giường thiền, quay mặt vô vách mà ngồi. Sư trải tọa cụ, hướng về phía Bảo Thọ mà lễ bái. Ngay lúc Bảo Thọ bước xuống thiền sàng, sư quay ra ngoài đi tuốt
*
Sư lại đến chỗ Diêm Quan nói:
- Coi tên đây !
Diêm Quan nói:
- Xuyên qua khỏi rồi.
Sư nói:
- Bắn trúng rồi.
*
Sư lại đến chỗ Giáp Sơn, cầm cả thiền trượng xông vào pháp đường. Giáp Sơn nói:
- Ông đến đây làm gì ?
Sư nói:
- Dò thăm xem nước cạn sâu.
Giáp Sơn nói:
- Ta nơi đây một giọt nước cũng không có. Ông thăm dò cái gì ?
Sư dựng gậy vào vách rồi đi ra.
*
Sư còn định vân du núi Ngũ Đài, có vị đại đức làm bài kệ giữ sư lại. Kệ rằng:
Phiên âm:
Hà xứ thanh sơn bất đạo trường
Hà tu sách trượng lễ Thanh Lương
Vân trung ký hữu kim mao hiện
Chánh nhãn quan thời phi cát tường.
Tạm dịch:
Núi biếc nơi nao chẳng đạo trường
Cần gì chống gậy lễ Thanh Lương
Trong mây dẫu có lông vàng hiện
Chánh nhãn nhìn xem chẳng cát tường.
Sư hỏi ông ta:
- Thế nào là Chánh nhãn ?
Vị đại đức không có cách nào đối đáp lại.
*
Sau khi được Nam Tuyền ấn khả, Sư về Tào Châu thăm bổn sư. Những người quen thuộc hay tin Sư về đều muốn đến thăm, Sư nghe được bèn nói:
- Lưới ái trần tục không có ngày dứt được, ta đã từ bỏ xuất gia, không muốn gặp lại.
Sư liền mang bát cầm gậy dạo khắp các nơi. Sư thường nói:
- Trẻ con bảy tuổi hơn ta thì ta hỏi nó, ông già trăm tuổi chẳng bằng ta thì ta dạy họ.
Từ đó Thiền phong của sư lưu hành nơi đất Bắc. Nhận lời thỉnh cầu của tín chúng, sư đến trụ ở viện Quan Âm thành Triệu Châu (Nay là chùa Bá Lâm ở Triệu huyện Hà Bắc).
*
Ngữ lục của Triệu Châu phần lớn gồm những 'vấn đáp' chứ không có nhiều bài pháp. Nếu có, thì rất ngắn và nói thẳng.
Có một hôm, sư thượng đường khai thị Thiền chúng:
- Như viên minh châu trong bàn tay, người Hồ đến hiện người Hồ, người Hán đến hiện người Hán. Lão tăng ta lấy cọng cỏ làm Phật thân vàng một trượng sáu thước, lấy thân Phật vàng một trượng sáu thước làm cọng cỏ. Phật là phiền não, phiền não là Phật.
Lúc đó, có một ông tăng bước ra hỏi:
- Chẳng hay Phật vì ai mà phiền não ?
Triệu Châu nói:
- Vì mọi chúng sanh mà phiền não.
Ông tăng ấy hỏi:
- Làm cách nào mà tiêu trừ được phiền não ấy ?
Sư nói:
- Tiêu trừ làm chi.
*
Sư đang quét sân, có người hỏi:
- Hòa thượng đã là bậc thiện tri thức sao lại còn có bụi ?
Sư đáp:
- Bụi từ bên ngoài đến.
Người đó lại hỏi:
- Chốn chùa chiền thanh tịnh sao lại có bụi ?
Sư than:
- Ôi, lại thêm một hạt bụi nữa.
*
Có người hỏi:
- Con chó có Phật tánh không?
Sư đáp:
- Không.
- Trên đến chư Phật, dưới đến loài trùng kiến đều có Phật tánh, vì sao con chó không có Phật tánh?
- Vì nó còn có nghiệp thức.
Lại, có người hỏi:
- Con chó có Phật tánh không?
Sư đáp:
- Có.
- Đã có Phật tánh vì sao chui vào trong đãy da?
- Vì biết mà cố phạm.
*
Có ông Tú tài đến hỏi Sư:
- Phật chẳng trái sở nguyện của chúng sanh phải chăng?
Sư đáp:- Phải.
- Con muốn xin cây gậy trong tay Hòa thượng được chăng?
- Người quân tử không đoạt cái sở thích của người.
- Con không phải là quân tử.
- Ta cũng chẳng phải là Phật.
*
Lại có người cùng sư đi chơi trong vườn, thấy con thỏ hoảng sợ phóng chạy hỏi:
- Hòa thượng là bậc đại thiện tri thức có tấm lòng Bồ-tát vậy sao con thỏ trông thấy ngài lại kinh hoảng bỏ chạy ?
Sư đáp:
- Chỉ vì lão tăng đây hiếu sát.
Viện Quan Am của sư có cây cột cờ đá viết chú Đà-ra-ni bị gió giật gãy. Có ông tăng hỏi:
- Cờ viết chú Đà-ra-ni là phàm hay Thánh ?
Sư đáp:
- Không phàm mà cũng không Thánh.
Tăng hỏi:
- Rốt lại là gì ?
Sư đáp:
- Là rơi nhào xuống đất.
*
Sư hỏi một tọa chủ:
- Ông giảng kinh gì ?
Tọa chủ đáp:
- Giảng kinh Niết-bàn.
Sư hỏi:
- Xin hỏi một đoạn nghĩa kinh, được không ?
Tọa chủ đáp:
- Thưa được.
Sư dùng chân đá khoảng không một đá, dùng mồm thổi một hơi hỏi:
- Đó là nghĩa gì ?
Tọa chủ nói:
- Trong kinh không có nghĩa đó.
Sư nói:
- Đó là nghĩa 500 lực sĩ nâng đá, sao lại nói là không có.
*
Vào lúc đại chúng tham Thiền buổi tối, sư nói:
- Tối nay ta sẽ hồi đáp lại lời hỏi của quí vị, ai muốn hỏi thì cứ bước ra.
Lúc ấy có một ông tăng bước ra lễ bái, sư nói:
- Vừa rồi những tưởng liệng gạch, dẫn ngọc, ai dè dẫn phải một
viên ngói mộc hạng bét.
*
Tăng hỏi:
- Loại người như thế này đến, Hòa thượng có tiếp dẫn không ?
Sư đáp:
- Tiếp dẫn.
Lại hỏi:
- Không phải loại như thế này đến, Hòa thượng có tiếp dẫn không ?
Sư đáp:
- Cũng tiếp dẫn.
Ông tăng ấy nói:
- Loại người như thế này đến mặc tình Hòa thượng tiếp. Không
phải đến như thế làm sao tiếp ?
Sư nói:
- Dừng thôi, dừng thôi, không nên nói nữa, pháp của ta huyền diệu
không thể nghĩ bàn.
*
Sư ra khỏi viện gặp một bà lão, bà ta hỏi:
- Hòa thượng trụ ở đâu ?
Sư đáp:
- Ở phía tây của Đông viện Triệu Châu.
Bà lão tắt họng. Sau khi trở về viện, sư hỏi chúng tăng:
- Ta đối với bà lão nói chữ Tây chuyển nghĩa thành Đông Tây đấy, còn có nghĩa là Nương ở đấy.
Rồi sư nói:
- Các ông hiện tại làm một ông phán quan muối đen .
Tăng hỏi:
- Hòa thượng vì sao mà nói thế ?
Sư nói:
- Chỉ vì các ông biết chữ.
Tăng hỏi:
- Thế nào là vật báu trong bọc ?
Sư nói:
- Phải giữ miệng.
*
Có một ông tăng mới đến nói:
- Con từ Trường An tới, vai quảy một cây gậy mà không quơ chạm
nhằm người nào cả.
Sư nói:
- Ấy chỉ vì cây gậy của đại đức ngắn quá đấy thôi.
Tăng không lời đối đáp.
*
Có một ông tăng vẽ bức ảnh của sư, trình lên cho sư xem. Sư nói:
- Hãy nói xem giống hay không giống lão tăng ta. Nếu nói giống
thì hại chết ta rồi, còn nếu nói không giống thì đem đốt quách đi.
Ông tăng trước hai điều khó nói của Thiền sư đã không trả lời
được là giống hay không giống.
*
Sư khêu lửa hỏi ông tăng:
- Lão tăng ta gọi là lửa, ông gọi là gì ?
Ông tăng cứng họng. Sư nói:
- Không hiểu huyền chỉ, nhọc công niệm tịnh !
Ông tăng mới đến tham lễ, sư hỏi:
- Từ đâu đến ?
Tăng đáp:
- Từ phương Nam đến.
Sư nói:
- Tất cả pháp Phật đều ở phương Nam, ông đến đây làm gì ?
Tăng đáp:
- Pháp Phật há lại có Nam Bắc ru ?
Sư nói:
- Chẳng kể ông từ Tuyết Phong đến, hay từ Vân Cư đến thì ông vẫn chỉ là tên gánh đồ.
*
Tăng hỏi:
- Thế nào là Phật ?
Sư nói:
- Thì ngồi ở Chánh điện đó.
Tăng nói:
- Ngồi trong Chánh điện há không phải chỉ là tượng đất nắn đó sao ?
Sư nói:
- Đúng vậy.
Ông tăng nọ lại nói:
- Con hỏi cái gì là Phật ?
Sư vẫn trả lời:
- Thì ngồi trong Chánh điện đó.
Vị Tăng vẫn khăng khăng nói:
- Vị Phật ấy có hình tướng. Cái gì là vị Phật không có hình tướng?
Triệu Châu nói:
- Tâm.
Vị Tăng nói:
- Tâm là chủ cách. Con vẫn muốn biết: Ai là Phật?
Triệu Châu nói:
- Không tâm.
Vị Tăng nói:
- Người ta có thể phân biệt giữa tâm và vô tâm không?
Triệu Châu nói:
- Lão Tăng đã làm rồi đó. Ông còn muốn lão Tăng nói thêm gì nữa đây?.
*
Ngày nọ, một bà lão đến và hỏi Triệu Châu:
- Tôi mang cái thân nữ này bị năm giây ràng buộc chướng ngại cho Phật tánh, làm sao thoát ly những triền phược ấy?
Triệu Châu đáp:
- Xin nguyện cho mọi người sanh lên cõi trời, còn thân tiện tỳ nầy nguyện tiếp tục chịu trầm luân một mình trong biển khổ!"
*
Sư thượng đường khai thị:
- Một khi đã rơi vào cảnh giới phải trái, thì tự nhiên mất đi tự tâm, lúc đó còn cho các vị đối đáp lời lẽ sao.
Lạc Phổ trong chúng gõ răng.
Thiền sư Vân Cư nói:
- Cần gì phải thuật lại lắm lần thế.
Sư nói:
- Phương Nam từng có nhiều người táng thân mất mạng.
*
Sư nghe nói có một sa-di lúc tham lễ Thiền sư chỉ dùng tiếng hét, bèn nói với thị giả:
- Bảo ông ta đi đi !
Thị giả bèn bảo sa-di rời khỏi nơi này, sa-di răm rắp nghe lời giã từ rời khỏi. Sư nói:
- Sa-di đã vào bên trong cửa, thị giả còn ở bên ngoài cửa.
*
Sư hỏi ông tăng mới đến:
- Từ đâu đến đây ?
Ông tăng đáp:
- Từ phương Nam đến.
Sư nói:
- Ông biết hay không biết cửa ải Triệu Châu ?
Ông tăng ấy nói:
- Thiền sư nên biết có người chẳng cần vượt qua ải.
Sư nói:
- Ông là đứa bán muối lậu.
Ông tăng lại hỏi:
- Thế nào là chỉ ý Thiền tông ?
Sư bước xuống giường Thiền đứng thẳng. Ông tăng nói:
- Phải chăng đó là chỉ ý Thiền tông (Tổ sư Tây lai ý) ?
Sư nói:
- Lão tăng đây chưa từng nói kiểu ấy.
*
Sư hỏi người coi vườn:
- Hôm nay ăn cải sống hay cải chín ?
Người coi vườn đưa bụi cải trình sư xem. Sư nói:
- Kẻ tri ân thì ít, người phụ ân thì nhiều.
*
Ông tăng hỏi:
- Trong Không kiếp có người tu hành không ?
Sư nói:
- Ông gọi cái gì là Không kiếp ?
Ông tăng nói:
- Trống không chẳng có vật gì là Không kiếp.
Sư nói:
- Cái đó mới đúng là tu hành, cái gì gọi là Không kiếp.
Tăng tắt họng.
*
Tăng hỏi:
- Thế nào là huyền trong huyền ?
Sư nói:
- Ông huyền hồi nào vậy ?
Tăng đáp:
- Huyền đã lâu rồi.
Sư nói:
- Xà-lê nếu không gặp lão tăng thì coi như bị huyền giết chết.
Tăng hỏi:
- Muôn pháp trở về một, một trở về đâu ?
Sư nói:
- Lão tăng tại Thanh Châu may được một cái áo vải nặng bảy cân.
*
Tăng hỏi:
- Ban đêm sanh tại cung Đâu Suất, ban ngày giáng xuống cõi Diêm
Phù. Ở khoảng giữa ngọc ma-ni sao không xuất hiện ?
Sư hỏi:
- Nói cái gì ? Ông tăng nọ lại hỏi nữa, sư nói:
- Phật Tì Bà Thi đã sớm lưu tâm mà cho đến nay không được diệu.
*
Sư hỏi Viện chủ:
- Từ đâu đến ?
Viện chủ đáp:
- Từ chỗ phóng sanh đến.
Sư hỏi:
- Thế sao quạ bay hết vậy ?
Viện chủ đáp:
- Vì chúng sợ con đây.
Viện chủ lại hỏi:
- Vì sao quạ bay hết ?
Sư nói:
- Vì mỗ giáp đây có sát tâm.
*
Sư đưa cái bát lên nói:
- Ba mươi năm sau nếu thấy lão tăng ta, thì giữ lại cúng dường nếu không thấy thì đập bỏ.
Một ông tăng bước ra nói:
- Ba mươi năm sau há dám nói còn thấy Hòa thượng sao ?
Sư bèn đập bể cái bát.
*
Có ông tăng từ giã, sư hỏi:
- Đi về đâu ?
Ông tăng đáp:
- Đi đến Tuyết Phong.
Sư nói:
- Nếu Tuyết Phong hỏi rằng Hòa thượng có lời lẽ gì, thì ông đối đáp thế nào ?
Tăng đáp:
- Con đây nói không được, thỉnh Hòa thượng nói giùm.
Sư nói:
- Mùa đông tức nói lạnh, mùa hạ tức nói nóng.
Lại hỏi:
- Tuyết Phong nếu hỏi nữa thì ông rốt lại đối đáp là sao ?
Ông tăng lại đáp:
- Không biết nói sao.
Sư nói:
- Ông nên nói thân tuy từ chỗ Triệu Châu lại, nhưng không phải là người truyền ngữ.
Ông tăng đến Tuyết Phong đem những lời Triệu Châu dặn dò đối
đáp với Tuyết Phong. Tuyết Phong nói:
- Phải là Triệu Châu thì mới nói được như thế.
Huyền Sa Sư Bị nghe chuyện nói:
- Đại tiểu Triệu Châu gì cũng làm suy bại phương bắc mà lại không biết.
*
Tăng hỏi:
- Thế nào là một câu Triệu Châu ?
Sư nói:
- Lão tăng ta nửa câu còn không có nói gì đến một câu.
Ông tăng hỏi:
- Hòa thượng mà không có sao ?
Sư nói:
- Ta không phải một câu.
*
Tăng hỏi:
- Thế nào là xuất gia chân chính ?
Sư nói:
- Không vì ham cầu danh tiếng, không cẩu thả cầu cho được.
Tăng hỏi:
- Trong trong tuyệt điểm thì thế nào ?
Sư đáp:
- Trong đây không làm gã làm khách.
*
Tăng hỏi:
- Thế nào là chỉ ý Thiền tông ?
Sư dộng gõ chân giường. Tăng hỏi:
- Phải chăng là cái đó ?
Sư nói:
- Phải đấy. Hãy tháo ra mà mang đi!
*
Tăng hỏi:
- Thế nào là viên tướng của Tì Lô ?
Sư nói:
- Lão tăng ta từ nhỏ xuất gia, chưa từng bị hoa mắt.
Tăng hỏi:
- Há chẳng chỉ dạy người sao ?
Sư nói:
- Mong ông thường thấy viên tướng của Tì Lô.
*
Sư dạy chúng:
- Vừa có phải quấy thì lăng xăng mất tâm, lại có người đáp thoại (câu nói) hay chăng?
Có vị Tăng bước ra vỗ thị giả một cái, nói:
- Sao không đáp Hòa thượng?
Sư liền vào phương trượng.
Sau, thị giả thưa:
- Vừa rồi có vị Tăng làm thế ấy là hội hay chẳng hội?
Sư bảo:
- Ngồi thấy đứng, đứng thấy ngồi.
*
Lại có một vị Tăng khác nữa đến hỏi:
- Hòa Thượng thường nói: ‘“Đạo chẳng khó, chỉ hiềm lựa chọn và chấp trước vào cái mình thích. Nhưng nếu nói ra bất cứ điều gì cũng là lựa chọn và chấp trước. Vậy thì làm cách nào người này có thể giúp đỡ người kia?”
Triệu Châu nói:
- Ông phải nói hết câu trích dẫn.
Vị Tăng thừa nhận:
- Con chỉ biết có bấy nhiêu đó thôi”
Triệu Châu nói:
- Đạo chẳng khó, chỉ hiềm lựa chọn và chấp trước vào cái mình thích.
*
Một vị Tăng hỏi Triệu Châu:
- Ví có người không manh áo dính thân đến đây, Hòa Thượng bảo họ thế nào?
Triệu Châu hỏi lại:
- Ông nói trên người của người ấy không có cái gì?
Vị Tăng thưa:
- Bạch, không manh áo dính thân.
Triệu Châu đáp:
- Ừ, được rồi, không manh áo dính thân.
*
Lần khác, một vị Tăng cũng hỏi Triệu Châu cùng câu hỏi:
- Ví có người không manh áo dính thân đến đây, Hòa Thượng bảo họ thế nào? Triệu Châu lại đáp khác:
- Vứt hết đi!
*
Một hôm Triệu Châu thượng đường dạy chúng:
- Ca Diếp truyền pháp cho A Nan; mấy ông có biết Đạt Ma truyền pháp cho ai không?
Một vị Tăng bước ra nói:
- Sao sách sử nói Nhị Tổ Huệ Khả nhận được tủy của pháp?
Triệu Châu nói:
- Đừng phỉ báng Nhị Tổ. Đạt Ma dạy rằng người ở ngoài được da, người ở trong được xương, mấy ông có biết người cùng tột được gì không?
Một vị Tăng hỏi:
- Nhưng ai cũng biết có người được tủy mà?
Triệu Châu vặn lại:
- Ông ta chỉ được da thôi. Với tôi, tôi cấm nói đến tủy.
Vị Tăng hỏi:
- Vậy thế nào là tủy?
Triệu Châu nói:
- Hỏi thế đủ biết một mảy da ông cũng không vớt được.
Vị Tăng nói:
- Hòa Thượng thật chí thượng! Có phải đó là chỗ vị thế rốt ráo của Hòa Thượng không?
Triệu Châu nói:
- Ông có biết có người không chấp nhận ông không?
Vị Tăng nói:
- Nếu Hòa Thượng nói vậy, tức là có người khác có vị thế khác hơn.
Triệu Châu hỏi:
- Ai là người khác?
Vị Tăng hỏi gặn lại:
- Ai chẳng phải là người khác?
Triệu Châu nói:
- Tôi để ông nói gì tùy thích.
*
Một hôm, có một vị Tăng đến hỏi Triệu Châu: "Khi xương trắng ta hết thì cái linh diệu tồn tại đời đời ấy như thế nào?" Triệu Châu đáp: "Sáng nay trời lại nổi gió."
*
Một hôm, có một vị Tăng đến hỏi Triệu Châu:
- Không mang gì hết đến đây thì thế nào?
Triệu Châu đáp ngay lập tức:
- Buông xuống đi!
Vị Tăng nói:
- Một vật chẳng mang theo thì buông xuống cái gì?
Triệu Châu nói:
- Không buông xuống thì vác nó lên đi!.
*
Khi một vị Tăng hỏi Triệu Châu:
- Tại sao Tổ Bồ Đề Đạt Ma đến từ Thiên Trúc?
Triệu Châu đáp:
- Cây bách trước sân.
Vị Tăng phàn nàn:
- Xin thầy đừng đem những thứ của thế giới ngoại vật ấy mà nói với con.
Triệu Châu bảo vị Tăng:
- Lão Tăng đâu có làm vậy.
Vị Tăng nói:
Vậy xin thầy hãy nói với con “Tại sao Tổ Bồ Đề Đạt Ma đến từ Thiên Trúc?” Triệu Châu đáp:
- Cây bách trước sân.
*
Một vị Tăng hỏi:
- Nếu chúng con gặp một người sống trong cảnh nghèo nàn, chúng con nên cho người ấy thứ gì?
Triệu Châu quả quyết:
Người ấy đâu có thiếu thứ gì.
*
Có vị Tăng hỏi:
- Trong mười hai giờ dụng tâm thế nào?
Sư đáp:
- Ngươi bị mười hai giờ sai khiến, ta sai khiến được mười hai giờ.
Sư bèn nói:
- Huynh đệ! Chớ đứng lâu. Có việc thì thương lượng, không việc thì đến nhà sau ngồi, tìm xét lý là tốt. Lão tăng lúc đi hành khước, trừ hai thời cơm cháo là tạp dụng tâm, ngoài ra không có dụng tâm khác. Nếu chẳng như thế rất là xa vậy.
*
Có người hỏi:
- Hòa thượng có còn phải nhập địa ngục không ?
Sư đáp:
- Ta vào sau hết.
Người đó hỏi:
- Hòa thượng là bậc đại thiện tri thức thì vì sao còn phải vào địa ngục ?
Sư nói:
- Nếu ta không vào địa ngục thì lấy ai giáo hóa bọn ông.
*
Hỏi:
- Hòa thượng tuổi tác bao nhiêu ?
Sư đáp:
- Một xâu chuỗi hột, lần hoài không hết.
Hỏi:
- Hòa thượng nối pháp của ai ?
Sư đáp:
- Tùng Thẩm.
Hỏi:
- Nếu có người bên ngoài hỏi: Triệu Châu nói pháp gì ? thì đối đáp cách nào ?
Sư nói:
- Muối quí, gạo tiện.
(Theo Cổ Tôn Túc Ngữ Lục quyển 14)
*
Hỏi:
- Thế nào là chỉ ý Thiền tông (Tổ sư Tây lai ý) ?
Sư đáp:
- Là cái chân giường đấy.
Hỏi:
- Có đúng là cái ấy không ?
Sư đáp:
- Đúng đấy, cứ tháo ra mà lấy đi.
(Theo Cổ Tôn Túc Ngữ Lục quyển 14)
*
Hỏi:
- Thế nào là Nhất cú ?
Sư hỏi:
- Nói cái gì ?
Hỏi:
- Thế nào là Nhất cú ?
Sư nói:
- Lưỡng cú rồi.
(Theo Cổ Tôn Túc Ngữ Lục quyển 14)
*
Ni cô hỏi:
- Thế nào là mật mật ý (của Thiền tông) ?
Sư dùng tay bấu chỗ mật của ni cô. Ni cô la toáng lên:
- Hòa thượng mà cũng còn cái mửng ấy à ?
Sư nói:
- Ấy, chính là cô có cái mửng ấy.
(Theo Ngũ Đăng Hội Nguyên quyển 4)
*
Hỏi:
- Thế nào là đạo ?
Sư đáp:
- Con đường ở bên ngoài tường ấy.
Nói:
- Không hỏi cái đó.
Sư nói:
- Vậy ông hỏi cái gì ?
Nói:
- Đại đạo.
Sư đáp:
- Đường lớn tới kinh đô Trường An.
(Theo Ngũ Đăng Hội Nguyên quyển 4)
*
Sư cùng Văn Viễn luận nghĩa nói:
- Đấu thua không đấu thắng. Người thắng thua trái cây.Văn Viễn nói:
- Thỉnh Hòa thượng lập nghĩa.
Sư nói:
- Ta là cái đầu lừa.
Văn Viễn nói:
- Con là cái bao tử lừa.
Sư nói:
- Ta là cứt lừa.
Văn Viễn nói:
- Con là giòi trong cứt lừa.
Sư hỏi:
- Ông ở nơi đây là gì ?
Văn Viễn nói:
- Con quá hạ an cư.
Sư nói:
- Đem trái cây lại cho ta.
(Theo Ngũ Đăng Hội Nguyên quyển 4)
*
Sư thượng đường khai thị:
- Chánh nhân thuyết tà pháp, tà pháp trở thành chánh pháp. Tà nhân thuyết chánh pháp, chánh pháp trở thành tà pháp. Thiền sư các nơi khó gặp mà dễ hiểu, ta nơi đây dễ gặp mà khó hiểu.
Hỏi:
- Thế nào là Triệu Châu ?
Sư đáp:
- Cửa Đông, cửa Tây, cửa Nam, cửa Bắc.
(Theo Ngũ Đăng Hội Nguyên quyển 4)
*
Hỏi:
- Hòa thượng họ gì ?
Sư đáp:
- Thường Châu.
Hỏi:
- Tuổi tác bao nhiêu ?
Đáp:
- Tô Châu.
(Theo Ngũ Đăng Hội Nguyên quyển 4)
*
Hỏi
- Trong muời hai thời thì dụng tâm thế nào ?
Sư đáp:
- Ông bị mười hai thời sai sử, còn ta sai sử mười hai thời.
Rồi sư nói:
- Này các huynh đệ, chớ có đứng lâu. Có việc cứ thương lượng, nếu không có việc thì hãy trở về giường Thiền dài mà nghỉ ngơi. Hồi ta đi hành cước, trừ hai thời cơm cháo là có dụng tâm, còn ngoài ra thì chẳng dụng tâm tí nào. Nếu mà không làm đúng như vậy thì rời xa Thiền
lý lắm.
(Theo Ngũ Đăng Hội Nguyên quyển 4)
*
Tăng hỏi:
- Thế nào là tâm của cổ Phật ?
Sư đáp:
- Ba người đàn bà sắp hàng lạy.
Hỏi:
- Thế nào là ý chỉ chẳng biến động ?
Sư đáp:
- Một con chim sẻ bay từ Đông sang Tây.
(Theo Ngũ Đăng Hội Nguyên quyển 4)
*
Hỏi:
- Kẻ học này nghi thời làm sao ?
Sư hỏi:
- Đại nghi hay tiểu nghi ?
Tăng đáp:
- Đại nghi.
Sư nói:
- Đại nghi (tiện) thì ở hướng Đông bắc, còn tiểu (tiện) nghi thì phía sau tăng đường.
(Theo Ngũ Đăng Hội Nguyên quyển 4)
*
Hỏi:
- Cây bá thọ tử có Phật tánh hay không ?
Sư đáp:
- Có.
Hỏi tiếp:
- Vậy bao giờ nó thành Phật ?
Sư đáp:
- Chờ chừng nào hư không rơi xuống đất.
Hỏi:
- Hư không chừng nào mới rơi xuống đất ?
Sư đáp:
- Chờ chừng nào cây bá thọ tử thành Phật.
(Theo Ngũ Đăng Hội Nguyên quyển 4
*
Ngày nọ, Vương Soái đất Chân Định dẫn các con vào viện Quan Âm. Sư ngồi im không động đậy hỏi:
- Đại vương có lãnh hội không ?
Vương Súy đáp:
- Không lãnh hội.
Sư nói:
- Từ nhỏ ăn chay thân đã lão, thấy người thiếu sức xuống giường Thiền.
Vương súy càng thêm lễ trọng.
Ngày hôm sau, Vương soái phái một vị tướng đến truyền lời, sư lật đật bước xuống giường nghinh tiếp. Sau đó một lúc, thị giả hỏi:
- Hôm qua Đại vương đến Hòa thượng không bước xuống giường nghinh tiếp. Hôm nay thấy tướng quân của Đại vương thì lại xuống giường Thiền tiếp đón, thế là nghĩa lý gì ?
Sư nói:
- Chẳng phải là chuyện ông biết, nhân vật hàng đầu đến thì ngồi trên giường Thiền tiếp, nhân vật hạng trung thì bước xuống giường tiếp, còn hạng thứ ba thì phải ra tận cổng chùa mà tiếp.
Sư lại nhờ tướng quân chuyển trao cây xơ quất tặng Vương soái và dặn:
- Nếu có hỏi từ đâu được thì nói đây là vật mà cả đời lão tăng dùng không hết.
*
Quan Đại phu họ Mã đến hỏi:
- Hòa thượng có tu hành chăng?
Sư đáp:
- Lão tăng nếu tu hành là việc họa.
- Hòa thượng đã chẳng tu hành thì dạy người nào tu hành?
- Đại phu là người tu hành.
- Con sao bảo là tu hành?
- Nếu không tu hành thì đâu được đánh đập người, ở trong địa vị nhân vương đói có cơm, lạnh có áo, không biết ngày ra khỏi.
Đại phu nghe cảm động rơi nước mắt, lễ tạ Sư.
*
Thời gian trụ trì tại viện Quan Âm, có vua nước Yên, nước Triệu đồng đến ra mắt Sư. Sư vẫn ngồi tiếp, không đứng dậy. Vua Yên hỏi:
- Nhân vương đáng tôn trọng hay Pháp vương đáng tôn trọng?
Sư đáp:
- Nếu ở trong nhân vương thì Nhân vương trọng, nếu ở trong pháp vương thì Pháp vương trọng.
Hai vua nghe rồi đều vui vẻ kính phục và đồng cúng dường.
*
Sư học theo người xưa trụ trì rất kham khổ, trong Tăng đường trước sau trống rỗng không có bàn ghế, chỉ nằm cái giường dây gãy một góc, lấy dây ràng rịt lại. Có người xin đóng giường mới, Sư không cho. Trụ trì hơn bốn mươi năm, Sư chưa từng biên một lá thơ cho thí chủ.
Huyền ngôn của sư lưu bố trong thiên hạ, người đời đều gọi đó là môn phong của Triệu Châu và chẳng có ai mà không tin phục.
*
Năm thứ tư đời Càn Minh nhà Đường (897), ngày mùng 2 tháng 11, sư nằm nghiêng bên hông phải mà viên tịch, thọ 120 tuổi, sau được thụy phong là Chân Tế Đại Sư.
---o0o---
Công Án
1) Tòng Thẩm Tẩy Cước: Tòng Thẩm rửa chân - Công án nói về cơ duyên vấn đáp giữa hai Thiền sư Triệu Châu Tòng Thẩm và Lâm tế Nghĩa Huyền. Theo Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, quyển X, và Ngũ Đăng Hội Nguyên, quyển XI, một hôm, Triệu Châu hỏi Lâm Tế:
- Thế nào là ý Tổ Sư từ Tây Vực sang?
Lâm Tế đáp:
- Giống như gặp lão Tăng đang rửa chân.
Triệu Châu bước đến gần làm ra vẻ lắng nghe, Lâm Tế liền nói:
- Lại phải dội thêm gáo thứ hai thôi.
2) Triệu Châu: Ẩm Nhất Bôi Trà: Thuật ngữ "Ẩm Nhất Bôi Trà" hay "hãy uống một chén trà!" là châm ngôn nhà thiền, nguyên lai của đại thiền sư Triệu Châu Tòng Thẩm. Từ nầy nói lên rằng cuộc đời do thể nghiệm thiền đem lại chẳng có gì đặc biệt cả, cũng chẳng tách rời khỏi những công việc hằng ngày.
Triệu Châu hỏi vị Tăng mới đến:
- Từng đến đây chưa?
Tăng thưa:
- Từng đến.
- Uống trà đi!
Sư lại hỏi Tăng:
- Từng đến đây chưa?
Tăng thưa:
- Chưa từng đến.
- Uống trà đi!
Sau Viện chủ hỏi Sư:
- Vì sao từng đến dạy uống trà đi, chưa từng đến cũng dạy uống trà đi?
Sư gọi:
- Viện chủ!
Viện chủ đáp:
- Dạ!
Sư bảo:
- Uống trà đi!
*
3) Triệu Châu: Bà Tử Thâu Duẫn: Công án của bà lão trộm măng của Triệu Châu. Theo Truyền Đăng Lục, quyển X, một hôm, Triệu Châu gặp một bà lão trên đường đi, liền hỏi:
- Bà đi đâu?
Bà Lão đáp:
- Đi ăn trộm măng của Triệu Châu.
Triệu Châu hỏi:
- Nếu tình cờ gặp Triệu Châu thì bà làm gì?
Bà lão liền táng cho Triệu Châu một bạt tai đau điếng
4) Triệu Châu Bối Rối:
Thí dụ thứ 58 của Bích Nham Lục. Một vị Tăng hỏi Triệu Châu:
- Chí đạo vô nan, duy hiềm giản trạch, phải là sào huyệt của thời nhơn chăng?
Triệu Châu đáp:
- Đã có người hỏi tôi, mà mãi đến năm năm vẫn còn bối rối.
5) Triệu Châu Cẩu Tử: Con Chó của Triệu Châu, thí dụ thứ 1 của Vô Môn Quan. Một hôm có một vị Tăng hỏi Triệu Châu:
- Một con chó có Phật tánh hay không?
Triệu Châu đáp:
- Vô (Mu).
6) Triệu Châu Chí Đạo Vô Nan: Thí dụ thứ 57 của Bích Nham Lục. Triệu Châu thượng đường thuyết pháp:
- Đạo chẳng khó, chỉ hiềm lựa chọn, vừa có nói năng là lựa chọn, là minh bạch. Lão Tăng chẳng ở trong minh bạch, các ngươi lại tiếc giữ chăng?
Có vị Tăng đứng ra hỏi:
- Nếu Đạo đã chẳng hiểu minh bạch thì tiếc giữ cái gì?
Triệu Châu bảo:
- Ta cũng chẳng biết.
Vị Tăng nói:
- Hòa Thượng đã chẳng biết, vì sao chẳng ở trong minh bạch?
Triệu Châu nói:
- Hỏi thì được. Lễ bái xong lui ra.
7) Triệu Châu Cứu Hỏa:
Sư trong hội của Nam Tuyền là hỏa đầu. Có một hôm sư đóng chặt cửa, đốt khói um cả gian phòng, la lớn:
- Chữa cháy ! Chữa cháy !
Tăng chúng nghe kêu cứu đều hoảng hốt chạy a tới. Sư ở trong cửa nói vọng ra:
- Nói được tức mở cửa.
Tăng chúng không đối đáp được, chỉ thấy Nam Tuyền lấy chìa khóa đút qua lỗ song cho sư, sư liền mở cửa ra.
8) Triệu Châu Đại Thái:
Thí dụ thứ 30 của Bích Nham Lục. Một vị Tăng hỏi Triệu Châu:
- Được nghe Hòa Thượng thân kiến Nam Tuyền phải chăng?
Triệu Châu đáp:
- Ở Trấn Châu phát xuất củ cải to."
9) Triệu Châu Đại Tử Nhân:
Thí dụ thứ 41 của Bích Nham Lục. Triệu Châu hỏi Đầu Tử:
- Người đại tử khi sống lại thì thế nào?
Đầu Tử đáp:
- Chẳng cho đi đêm, đợi sáng sẽ đến.
10) Triệu Châu Khám Am Chủ
Thí dụ thứ 11 của Vô Môn Quan. Ngày nọ Triệu Châu ghé thăm một am chủ, hỏi:
- Có chăng? Có chăng?
Chủ am giơ nắm tay lên. Sư nói:
- Nước cạn không phải chỗ đậu thuyền. Nói xong Sư bèn bỏ đi. Lại ghé một am khác, hỏi:
- Có chăng? Có chăng?
Chủ am cũng giơ nắm tay lên. Sư nói:
- Buông được, bắt được, giết được, cứu được.
Nói xong sư bèn lễ bái.
11) Triệu Châu Khám Bà:
Quan Âm Viện tọa lạc trên Đài Sơn, một trong năm ngọn núi thiêng liêng ở Trung Hoa. Đây là một điểm đến rất phổ biến cho những người đi hành hương, và có một bà lão vận hành một quán trà ngay trên đường đi lên núi. Theo thí dụ thứ 31 của Vô Môn Quan, có một ông Tăng hỏi một bà lão:
- Lên núi Ngũ Đài đi đường nào ?
Bà lão nói:
- Thì cứ thẳng đường mà đi thôi.
Ông tăng bèn đi tới như thế. Lão bà tự nói:
- Lại theo kiểu đó mà đi.
Sau đó, ông tăng gặp sư, đem tự sự nói cho ngài nghe. Sư nói:
- Đợi ta khám phá cái bà đó cho.
Ngày hôm sau, Sư đến hỏi bà lão:
- Đường lên núi Ngũ Đài đi theo hướng nào ?
Lão bà cũng vẫn nói:
- Cứ theo đường thẳng mà đi !Sư sau khi trở về viện Quan Âm, nói với ông tăng kia:
- Ta đã thức phá bà lão ấy giùm cho ông rồi.
12) Triệu Châu: Mạc Gia Kiếm:
Tên của một thanh kiếm nổi tiếng thời cổ đại bên Trung Hoa. Thiền tông dùng từ nầy để chỉ trí huệ sẵn có của mỗi người hay tri kiến Bát Nhã. Theo Bích Nham Lục, tắc 9, gương sáng hiện trên đài, đẹp xấu tự phân, kiếm Mạt Gia trong tay, sống chết tùy thời. Hồ đi Hán lại, Hồ lại Hán đi, trong chết được sống, trong sống được chết. Nhưng đến trong ấy để làm gì? Nếu không có con mắt thấu qua làm chỗ chuyển thân, đến trong ấy hẳn là không làm gì được. Nhưng thế nào là con mắt thấu qua làm chỗ chuyển thân?
Một ông Tăng hỏi Triệu Châu:
- Thế nào là Triệu Châu?
Triệu Châu đáp:
- Cửa Đông, cửa Tây, cửa Nam, cửa Bắc.
13) Triệu Châu: Mu
Tên của một trong những công án nổi tiếng trong nhà Thiền. Công án "Vô" nổi tiếng, cho phép chính thiền sư Vô Môn đạt tới giác ngộ sâu sắc. Trong truyền thống Lâm Tế, đây là công án thường trao cho những môn đệ sơ cơ. Công án nầy chủ yếu được dùng như công án "Pháp Thân", nhằm giúp hành giả có sự thể nghiệm đầu tiên về đại giác. Mãi đến ngày nay, công án nầy được đưa ra như công án đầu tiên cho nhiều người khởi đầu con đường thiền. Theo quyển Ba trụ Thiền, một hôm Thiền sư An Cốc Bạch Vân thượng đường dạy chúng: "Ngày xưa, chưa có hệ thống công án, vậy mà nhiều người vẫn đạt đến tự ngộ. Nhưng đó là một công việc khó khăn và đòi hỏi nhiều thời gian. Người ta bắt đầu dùng đến công án cách đây chừng một ngàn năm và vẫn tiếp tục cho đến bây giờ. Một trong những công án hay nhất, bởi vì nó đơn giản nhất, đó là công án 'Mu'. Công án thật ngắn. Đây là những điều bạn cần phải biết để hiểu: Một hôm, một vị Tăng đến thăm Triệu Châu, vị Thiền sư lừng danh của Trung Hoa cách đây mấy trăm năm, và hỏi:
- Con chó có Phật tánh hay không?
Triệu Châu trả lời:
- Mu.
14) Triệu Châu: My Mao Tương Kết: My Mao giao kết cùng nhau
Theo Vô Môn Quan, tắc I, có một vị Tăng hỏi Triệu Châu:
- Con chó có Phật tánh không?
Triệu Châu đáp:
- Không.
15) Triệu Châu: My Phân Bát Tự: Lông mày hình chữ bát, chỉ cho lẽ đương nhiên. Theo Bích Nham Lục, tắc 30, một hôm có một vị Tăng hỏi Triệu Châu:
- Bẩm nghe Hòa thượng từng thân nhãn tham kiến Nam Tuyền phải không ?
Sư đáp:
- Ở Trấn Châu sản xuất ra một củ cải to.
16) Triệu Châu: Nhất Hữu Đa Chủng Nhị Vô Lưỡng Ban:
Vào một hôm khác, có một vị Tăng hỏi:
- Hòa Thượng thường nói: Đạo chẳng khó, chỉ hiềm lựa chọn cái mình thích. Còn không giản trạch không chấp trước thì thế nào?.
Triệu Châu trả lời bằng cách trích dẫn lời của đức Phật:
- Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn”
Vị Tăng nói:
- Vẫn còn lựa chọn và chấp trước”
Triệu Châu nói:
- “Đồ ngốc! Chỗ nào là lựa chọn và chấp trước?”.
17) Triệu Châu: Quỷ Hào Thần Khấp - Dáng vẻ mừng giận, buồn vui đến cực điểm (giống như sự gào khóc của quỷ thần). Trong thí dụ thứ 59 của Bích Nham Lục. Một vị Tăng hỏi Triệu Châu:
- “Chí đạo không khó, duy hiềm giản trạch, vừa có nói năng là giản trạch’’, Hòa Thượng vì người thế nào?
Triệu Châu bảo:
- Sao chẳng dẫn hết lời này?
Vị Tăng thưa:
- Con chỉ nhớ đến đó
Triệu Châu bảo:
- Chỉ là chí đạo không khó, duy hiềm giản trạch.
19) Triệu Châu Tam Chuyển Ngữ:
Sư thượng đường dạy chúng:
- Phật vàng không độ được lò đúc, Phật gỗ không độ được lửa, Phật đất không độ được nước, Phật thật ngồi ở trong. Bồ-đề Niết-bàn Chân như Phật tánh trọn là y phục đắp vào thân, cũng gọi phiền não, thật tế lý địa để ở chỗ nào? Một tâm chẳng sanh, muôn pháp không lỗi. Ngươi cứ nghiên cứu lý này, ngồi quán xét hai ba mươi năm, nếu chẳng hội thì chặt đầu Lão tăng đi! Nhọc nhằn nắm bắt mộng huyễn không hoa, tâm nếu chẳng khác thì muôn pháp nhất như. Đã chẳng từ ngoài được thì câu chấp làm gì? Giống in như con dê gặp vật gì cũng liếm cũng nhai. Lão tăng thấy Hòa thượng Dược Sơn (Duy Nghiễm) có người hỏi, Ngài liền bảo “ngậm lấy miệng chó”. Lão Tăng cũng dạy: “Ngậm miệng chó.” Chấp ngã thì nhơ, không chấp ngã thì sạch, giống như con chó săn tìm kiếm vật để ăn. Phật pháp ở chỗ nào? Ngàn người muôn người thảy đều là kẻ tìm Phật, mà ở trong đó tìm một đạo nhân (người học đạo thật) không có. Nếu cùng vua KHÔNG làm đệ tử, chớ bảo tâm bệnh khó trị. Khi chưa có thế giới, trước đã có tánh này, khi thế giới hoại, tánh này chẳng hoại. Một phen được thấy Lão tăng, sau lại chẳng phải người khác, chỉ là chủ nhân này. Cái đó lại hướng ngoài tìm làm gì? Khi ấy chớ xoa đầu moi óc, nếu xoa đầu moi óc liền mất vậy.
Có vị Tăng hỏi:
- Theo lời Thầy dạy “khi thế giới hoại, tánh này chẳng hoại”, thế nào là tánh này?
Sư đáp:
- Tứ đại ngũ uẩn.
- Các thứ ấy vẫn là hoại, thế nào là tánh này?
- Tứ đại ngũ uẩn.
20) Triệu Châu: Siêu Việt Lý Luận:
Một vị Tăng hỏi Triệu Châu:
- Một ánh sáng chia ra muôn ngàn ánh sáng, con xin hỏi do đâu có cái ánh sáng một ấy?
Nhưng Triệu Châu không phí công giải đáp, cũng không cần cãi vã lắm lời. Ngài chỉ vứt một chiếc giày cỏ đang mang, và không nói gì hết.
21) Triệu Châu: Tặc Khứ Hậu Trương Cung:
Giặc qua rồi mới giương cung, chỉ việc tu hành lề mề giải đãi.
Triệu Châu đi khắp bốn phương để tham Thiền. Đầu tiên đến núi Hoàng Bá (Hy Vận) . Thiền sư Hoàng Bá vừa thấy sư đến liền đóng cửa phương trượng. Sư quay lưng đi đến pháp đường đốt một đống lửa kêu to:
- Chữa cháy ! Chữa cháy !
Hoàng Bá mở cửa chộp lấy sư nói:
- Nói, nói mau !
Sư nói:
- Kẻ cướp qua rồi mới giương cung !
22) Triệu Châu Tẩy Bát: Triệu Châu Rửa Bát: thí dụ thứ 7 của Vô Môn Quan.
Một ông tăng hỏi:
- Con mới đến xin thầy chỉ giáo ?
Sư hỏi:
- Ông ăn cháo chưa ?
Tăng đáp:
- Đã ăn rồi.
Sư nói:
- Thế thì ông đem bát rửa đi.
Ông tăng đó bỗng nhiên tỉnh ngộ.
23) Triệu Châu Thạch Kiều:
Có ông tăng đến chỗ sư nói:
- Từ lâu nghe đại danh của cây cầu đá Triệu Châu, nay đến xem
thử thì thấy đó chỉ là chiếc cầu một cây mà thôi !
Sư nói:
- Đúng đấy, cái ông thấy chỉ là chiếc cầu một cây, mà không thấy
nổi cây cầu Triệu Châu thật sự.
Ông tăng ấy hỏi:
- Thế nào là cây cầu Triệu Châu thật sự ?
Sư nói:
- Qua đi, qua đi.
Sau đó, cũng có ông tăng khác hỏi giống ông tăng trước và sư cũng trả lời như đã trả lời ông tăng trước. Ông tăng này hỏi:
- Thế nào là cầu Triệu Châu ?
Sư nói:
- Chiếc cầu này đưa lừa, ngựa qua.
Lại hỏi:
- Thế nào là cầu một cây ?
Sư đáp:
- Chỉ có thể cho người sang thôi.
*
Một hôm, Triệu Châu cùng Thủ Tọa xem cầu đá. Triệu Châu hỏi:
- Là người nào tạo?
Thủ Tọa đáp:
- Lý Ưng tạo.
Triệu Châu lại hỏi:
- Khi tạo nhằm chỗ nào hạ thủ?
Thủ Tọa không đáp được. Triệu Châu bảo:
- Bình thường nói cầu đá, hỏi đến chỗ hạ thủ cũng không biết.
24) Triệu Châu: Thiện Sự Bất Như Vô Sự:
Theo quan điểm Thiền tông, việc tốt không bằng không việc. Lúc thị giả Viễn đang lễ bái ở điện Phật, Triệu Châu vừa thấy liền đánh cho một gậy và hỏi:
- Ông làm gì vậy?
Thị giả Viễn đáp:
- Lễ Phật.
Triệu Châu hỏi:
- Lễ để làm gì?
Thị giả Viễn đáp:
- Lễ Phật cũng là việc tốt.
Triệu Châu nói:
- Việc tốt không bằng không việc.
25) Triệu Châu: Tiền Đình Bách Thụ Tử: Cây bách trước sân
Tăng hỏi:
- Thế nào là chỉ ý Thiền tông (Tổ sư Tây lai ý) ?
Sư đáp:
- Cây bá thọ trước sân ?
Nói:
- Hòa thượng đừng đem cảnh mà dạy người.
Sư nói:
- Ta không đem hư cảnh dạy người.
Hỏi:
- Thế nào là chỉ ý Thiền tông ?
Sư đáp:
- Cây bá thọ trước sân.
26) Triệu Châu: Túng Nhiên Ngộ Khứ, Cánh Tham Tam Thập Niên Thủy Đắc: Dầu Triệu Châu có ngộ đi nữa, cũng phải bỏ ra ba mươi năm mà tham mới bắt đầu gọi là được
Nếu coi con đường Thiền là chuyển từ mù quáng sang đại giác thì sự phân biệt giữa ngộ và không ngộ là hết sức có ý nghĩa. Tuy nhiên, theo quan điểm đại giác, không có sự khác nhau giữa ý thức bình thường và ý thức giác ngộ, giữa ta bà và niết bàn, tinh thần đại giác hay không đại giác là đồng nhất về thực chất. Bản thể của tự tánh bình thường cùng khắp thời gian không gian, nơi phàm chẳng bớt, nơi Thánh chẳng thêm. Tâm nầy bình đẳng, chẳng sanh chẳng diệt, chúng sanh y theo tâm nầy ứng dụng trong cuộc sống hằng ngày, nên gọi bình thường tâm là đạo vậy. Đây là câu châm ngôn Thiền nổi tiếng của đại thiền sư Nam Tuyền Phổ Nguyện lấy từ một cuộc vấn đáp giữa ông và đệ tử của mình là Triệu Châu Tòng Thẩm và được kể lại trong thí dụ thứ 19 của Vô Môn Quan:
Triệu Châu hỏi Nam Tuyền:
- Đường nào vậy?
Nam Tuyền đáp:
- Bình thường tâm thị đạo.
Triệu Châu nói:
- Con có phải quay sang nó hay không?
Nam Tuyền nói:
- Nếu con thử quay sang nó, nó sẽ lẩn khỏi con.
Triệu Châu nói:
- Nhưng nếu còn không cố tìm nó thì có bao giờ con hiểu được đạo không?'
Nam Tuyền đáp:
- Con đường không thuộc vào các phạm trù biết hay không biết. Biết là mù, không biết là không phân biệt. Khi con thật sự đạt được con đường thật ở ngoài mọi nghi ngờ, con sẽ thấy rằng nó cũng rộng lớn và vô hạn như cái hư không lớn vậy. Như vậy thì làm sao nó có thể là thật hay giả?' Nghe xong, Triệu Châu bỗng thể nghiệm đại giác.
27) Triệu Châu: Tư Niệm Buông Lung:
Một hôm Thiền sư Triệu Châu Tòng Thẩm thượng đường dạy chúng:
- Phật đồng không nên đưa vào lò, Phật gỗ không nên cho vào lửa, Phật đất không nên cho vào nước. Phật thật ngự bên trong.
28) Triệu Châu Tứ Môn: Bốn cửa của Triệu Châu, thí dụ thứ 9 của Bích Nham Lục.
Một ông Tăng hỏi Triệu Châu:
- Thế nào là Triệu Châu?
Triệu Châu đáp:
- Cửa Đông, cửa Tây, cửa Nam, cửa Bắc.
29) Triệu Châu: Tương Thóa Nhiêu Nhĩ Bát Thủy: Tiếp nước cho hai người phun nhau (vì khi tranh luận nước bọt văng tung tóe, nên cần phải tiếp thêm). Thiền tông dùng từ nầy để chỉ cảnh giới hoàn toàn tự tại. Theo thí dụ thứ 58 của Bích Nham Lục, và Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, quyển X, một hôm có một vị Tăng hỏi Triệu Châu:
- Chí đạo vô nan, duy hiềm giản trạch, phải là sào huyệt của thời nhơn chăng?
Triệu Châu đáp:
- Đã có người hỏi tôi, mà mãi đến năm năm vẫn còn bối rối.
30) Triệu Châu: Vạn Pháp Qui Nhất; Nhất Qui Hà Xứ?: Muôn pháp đều quy về một mối: bình đẳng và bất nhị
Thí dụ thứ 45 của Bích Nham Lục. Một vị Tăng hỏi Triệu Châu:
- Muôn pháp về một, một về chỗ nào?
Triệu Châu đáp:
- Ta ở Thanh Châu dệt được một tấm vải bố nặng bảy cân.
|