Additional Info
Thiền Sư Lâm Tế Nghĩa Huyền
Pháp tự đời thứ tư của Nam Nhạc Hoài Nhượng
Pháp tự của Thiền Sư Hoàng Bá Hy Vận ở núi Huỳnh Nghiệt, Hồng Châu
Thiền sư Lâm Tế Nghĩa Huyền ở Trấn Châu (nay là Chính Định Hà Bắc), họ Tà (Hình), là người Nam Hoa Tào Châu (nay là vùng ranh giới Hà Bắc và Sơn Đông), từ lúc bé đã siêu trần thoát tục, chí hướng cao xa. Kịp đến sau khi xuống tóc thọ giới cụ túc, liền chuyên lòng mộ Thiền tông. Thường dừng các nơi giảng pháp, nghiên cứu tinh tường giới luật, thâm hiểu kinh luận, Sư than rằng: “Đây là phương thuốc cứu đời, chưa phải yếu chỉ của giáo ngoại biệt truyền”. Sư liền đi du phương.
*
Ban đầu, sư đến trong hội Hoàng Bá, theo chúng tham Thiền phục thị. Lúc ấy, trong Thiền đường đệ nhất tọa (Trần Tôn Túc) thấy sư khí vũ bất phàm, liền khuyên đến tham vấn Hòa thượng Hoàng Bá. Sư đến hỏi Hoàng Bá:
- Tổ sư Đạt Ma từ Tây qua Trung Quốc phổ truyền Tông chỉ gì?
Hoàng Bá liền đánh. Như thế, ba lần hỏi, ba lần đều bị đánh. Lâm Tế hơi bực mình liền đến từ giã đệ nhất tọa nói:
- Ban đầu nhờ ơn hậu ái khuyên nhủ đến hỏi pháp, nào ngờ cả ba lần hỏi đều bị Hòa thượng cho ăn gậy. Chỉ hận tôi đây tư chất bản tính ngu khờ, thôi thì nay đi hành cước tứ phương vậy.
Đệ nhất tọa đến nói với Hoàng Bá:
- Nghĩa Huyền tuy là hậu sanh nhưng rất đặc biệt. Khi đến từ giã ra đi, mong Hòa thượng phương tiện cho được đề huề !
Hôm sau, sư đến từ giã Hoàng Bá ra đi, Hòa thượng chỉ điểm sư hãy đến tham vấn Thiền sư Đại Ngu. Sau đó không lâu, sư đến chỗ Đại Ngu. Đại Ngu hỏi:
- Từ đâu đến?
Sư đáp:
- Từ chỗ Hoàng Bá đến.
Đại Ngu hỏi:
- Thiền sư Hoàng Bá dạy ông thế nào?
Sư đáp:
- Con hỏi chỉ ý của Tổ sư Đạt Ma từ Tây lại, Hoàng Bá Hòa thượng liền đánh con. Hỏi kiểu ấy ba lần đều bị đánh cả ba, không biết con sai phạm chỗ nào?
Đại Ngu nói:
- Hoàng Bá đã đem hết tâm lực ra dạy dỗ ông, vì ông khổ sở biết chừng nào ông không biết tạ ơn mà còn ở đó hỏi mình lỗi chỗ nào?
Chừng đó sư bỗng bừng ngộ nói:
- Phật pháp nguyên lai bất quá cũng như thế mà thôi !
Đại Ngu nghe lời đó bèn chộp lấy cổ áo sư nói:
- Mới vừa rồi còn nói không biết Phật pháp, giờ lại nói pháp Phật của Hoàng Bá bất quá chỉ như thế, ông hiểu được đạo lý gì? Nói mau, nói mau !
Sư chẳng tỏ vẻ hèn yếu chút nào, nhắm ngay be sườn Đại Ngu dộng ba thoi. Đại Ngu đỡ nắm đấm nói:
- Thầy ông là Hoàng Bá, ông cùng ta chẳng có liên can gì.
Sư bèn quay về núi Hoàng Bá. Hoàng Bá hỏi:
- Tại sao lại trở về mau như thế?
Sư nói:
- Chỉ vì tấm lòng tận tâm dạy dỗ của Hoàng Bá.
Hoàng Bá nói:
- Cái lão Đại Ngu chết bằm, để lão đây gặp được, không khỏi nện cho lão một trận mới được !
Sư nói:
- Cái gì là đợi gặp mới đánh, con nay đánh thầy ngay !
Sư hùng hổ nhảy tới dộng Hoàng Bá một thoi, Hoàng Bá nói:
- Cái gã khùng điên này hôm nay dám vào đây vuốt râu hùm !
Sư liền hét. Hoàng Bá nói:
- Thị giả đâu, hãy mau dẫn cái gã điên khùng này tới tham đường đi!
Có một hôm trong buổi lao động tập thể, Hòa thượng Hoàng Bá đang dẫy cỏ. Sư đi theo phía sau Hòa thượng. Hoàng Bá quay đầu lại, thấy hai tay sư trống trơn bèn hỏi:
- Cuốc của ông đâu?
Sư đáp:
- Có người mang đi rồi.
Hoàng Bá nói:
- Ông bước tới gần đây ta có chút việc muốn bàn với ông.
Sư bước tới. Hoàng Bá đưa cây cuốc cuốc trên đất nói:
- Chỉ có cái này mà trong thiên hạ chẳng có người nhấc nổi. Sư tiện tay nắm cây cuốc giở lên dựng trước mặt mình nói:
- Sư phụ nói chẳng ai nhấc nổi mà giờ đây trong tay Nghĩa Huyền rồi.
Hoàng Bá gật đầu nói:
- Nay thì có người lao động rồi đấy. Ta không cần lao động nữa.
Nói xong liền quay về viện.
*
Hòa thượng Hoàng Bá một hôm lao động tập thể cày vườn trà. Hòa thượng đến sau, sư hỏi thăm rồi chống cuốc mà đứng. Hoàng Bá hỏi:
- Phải chăng là mệt mỏi?
Sư nói:
- Vừa mới cuốc đất sao gọi là mệt mỏi được?
Hoàng Bá giơ gậy lên đánh. Sư đỡ gậy rồi đẩy ngã Hòa thượng.
Hoàng Bá gọi:
- Duy-na, duy-na ! Hãy đỡ ta dậy !
Duy-na đỡ Hoàng bá dậy nói:
- Hòa thượng sao mà chịu nổi tên khùng kia?
Hoàng Bá bèn đánh duy-na. Sư tự cuốc đất nói:
- Các nơi hỏa táng, ta nơi đây chôn sống.
*
Một hôm, Sư ngồi trước Tăng đường, thấy Hoàng Bá đến, liền nhắm mắt lại. Hoàng Bá làm thế sợ, liền trở về phương trượng. Sư theo đến phương trượng lễ tạ. Thủ tọa đứng hầu ở đó, Hoàng Bá bảo:
- Vị Tăng đây tuy là hậu sanh lại biết có việc này.
Thủ tọa thưa:
- Hòa thượng già dưới gót chân chẳng dính đất, lại chứng cứ kẻ hậu sanh.
Hoàng Bá liền vả trên miệng một cái. Thủ tọa thưa:
- Biết là được.
*
Ngày kia, sư ngủ tại tăng đường trong hội Hoàng Bá. Hoàng Bá bước vào lấy gậy gõ vào mép giường Thiền ba cái. Sư cất đầu thấy Hoàng Bá lại tiếp tục ngủ. Hoàng Bá lại gõ chiếu ba cái rồi lên gian trên gặp đệ nhất tọa nói:
- Thiền khách hậu sanh ở gian dưới ngồi Thiền. Ông ở đây vọng tưởng mà chi ?!
Đệ nhất tọa nói:
- Lão Hòa thượng này chắc trúng gió độc quá !
Hoàng Bá bèn đánh ông ta.
*
Sư mang thơ Hoàng Bá đến Qui Sơn. Khi ấy Ngưỡng Sơn Huệ Tịch làm Tri khách, tiếp được thơ liền hỏi:
- Cái này là của Hoàng Bá, cái kia là của người đem thơ.
Sư liền tát. Ngưỡng Sơn nắm đứng nói:
- Lão huynh biết việc ấy?
Sư liền thôi, hai người đồng đến Qui Sơn. Qui Sơn hỏi:
- Sư huynh Hoàng Bá có chúng nhiều ít?
Sư thưa:
- Bảy trăm (700) chúng.
- Người nào dẫn đầu?
- Vừa đem thơ xong.
Sư lại hỏi Qui Sơn:
- Khoảng này Hòa thượng được bao nhiêu chúng?
Qui Sơn đáp:
- Một ngàn năm trăm (1500) chúng.
- Thật nhiều thay!
- Sư huynh Hoàng Bá cũng chẳng ít.
Sư từ Qui Sơn, Ngưỡng Sơn đưa ra cửa nói:
- Chỉ đi, về sau có một người phụ tá Lão huynh, người này có đầu không đuôi, có thủy không chung [Sau, Sư đến Trấn Châu, Phổ Hóa đã có ở trước đấy. Sư khai đường giáo hóa, Phổ Hóa phụ giúp. Sư trụ chưa bao lâu, Phổ Hóa toàn thân đều thoát].
*
Sư nhân nửa hạ lên núi Hoàng Bá, thấy Hòa thượng đang xem kinh, sư nói:
- Con nguyên tưởng Hòa thượng là nhân vật này nọ trong chốn tùng lâm, té ra chỉ là lão Hòa thượng úm hắc đậu chỉ biết xem kinh, niệm Phật.
Nhân đó sư chỉ lưu lại ít ngày rồi định xuống núi. Hoàng Bá nói:
- Ông vi phạm cấm lệ của hạ an cư nửa chừng lên núi giờ định nửa chừng xuống núi đó chăng?
Sư nói:
- Con lần này đến đây chỉ là để thăm hỏi, chứ không tính ở lâu. Hoàng Bá bèn dùng gậy đuổi sư xuống núi. Sư đi được mấy dặm đường, trong lòng bồn chồn bất an, nghi hoặc chuyện này có điều không thỏa đáng, bèn quày lại ở trọn hạ an cư.
*
Ngày nọ, sư lại từ giã Hoàng Bá ra đi. Hoàng Bá hỏi:
- Ông định đi đến nơi nào?
Sư nói:
- Nếu không đi Hà Nam thì cũng đi Hà Bắc.
Hoàng Bá lại dùng gậy đánh sư. Lần này sư chụp lấy gậy nói:
- Cái lão này, không được dùng loạn gậy gộc đui mù mà đánh nhầm người.
Hoàng Bá kêu toáng thị giả:
- Hãy lấy một đống Thiền bản lại đây !
Sư lại nương theo la:
- Thị giả, đem mấy bó lửa lại !
Hoàng Bá nói:
- Không cần như thế, chỉ cần ông đi thôi. Ngày sau ông sẽ cắt đứt đầu lưỡi của thiên hạ.
Thế là sư rời khỏi ra đi.
*
Sư đi tới tháp Hùng Nhĩ. Ông từ hỏi:
- Ông lạy Phật trước hay là lạy Tổ Đạt Ma trước?
Sư nói:
- Ta Phật, Tổ gì cũng đều không lạy.
Ông từ nói:
- Tổ với Phật cùng ông có oan gia gì mà đều không lạy?
Sư phát tay áo rời khỏi.
*
Sư đến chỗ Thiền sư Thúy Phong. Thúy Phong hỏi:
- Từ nơi đâu đến?
Sư đáp:
- Từ chỗ Hoàng Bá đến.
Thúy Phong hòi:
- Hoàng Bá có ngữ cú gì dạy người ?
Sư đáp:
- Hoàng Bá không có ngữ cú.
Thúy Phong hỏi:
- Vì sao mà không có ngữ cú?
Sư đáp:
- Cho dù có thì cũng không có nơi để kể lại.
Thúy Phong nói:
- Không hề gì, hãy kể lại xem !
Sư nói:
- Một mũi tên đã bay tới trời Tây.
*
Trong một lần, Sư đến một ngôi tự viện được giám sát bởi Hoà Thượng Kim Ngưu, một người nối pháp của Mã Tổ. Khi Lâm Tế tới gần, Kim Ngưu lấy cây gậy và để ngay trước mình. Lâm Tế đi đến ngay trước mặt Kim Ngưu và dùng tay đánh vào gậy ba lần. Rồi Sư đi thẳng vào Thiền đường và ngồi vào ghế đệ nhất tòa. Kim Ngưu theo sau và đưa ra lời bình:
- Có những nghi thức mà người ta phải giữ khi đi đến làm khách ở nơi nào đó. Hãy nói cho lão Tăng biết ông từ đâu đến và ông có quyền gì mà bất lịch sự như thế.
Lâm Tế nói:
- Ông đang nói cái gì vậy, ông già?
Trước khi Kim Ngưu có thể trả lời thì Lâm Tế đã đánh ông. Kim Ngưu làm bộ té xuống. Lâm Tế lại đánh tiếp. Kim Ngưu cười lớn:
- Hôm nay sự việc không theo ý lão Tăng.
*
Sư đến Hòa thượng Bình ở Tam Phong. Bình hỏi:
- Ở đâu đến?
Sư đáp:
- Ở Hoàng Bá đến.
- Hoàng Bá có dạy lời gì?
- Đêm qua trâu vàng gặp đất tro, thẳng đến hôm nay chẳng thấy dấu. (Kim ngưu tạc dạ tao đồ thán, trực chí như kim bất kiến trung.)
- Gió vàng thổi sáo ngọc, cái gì là tri âm. (Kim phong suy ngọc quản, na cá thị tri âm.)
- Suốt thẳng muôn lớp cổng, chẳng dừng trong giữa đêm. (Trực thấu vạn trùng quan, bất trụ thanh tiêu nội.)
- Một câu hỏi của ngươi cao tột trời xanh.
- Rồng sanh con phụng vàng, vọt nát vách lưu ly. (Long sanh kim phụng tử, xung phá bích lưu ly.)
Bình bảo:
- Hãy ngồi uống trà, lại hỏi:
- Vừa ở đâu đến?
Sư thưa:
Long Quang.
Bình hỏi:
- Long Quang gần đây thế nào?
Sư liền ra đi.
*
Sư đến Phụng Lâm, Lâm hỏi:
- Có việc đem hỏi nhau được chăng?
Sư đáp:
- Đâu được khoét thịt làm thương tích.
- Trăng biển đã không bóng, cá lội đâu thể lầm? (Hải nguyệt ký vô bóng, du ngư hà đắc mê.)
- Xem gió biết sóng dậy, nhìn nước đoán buồm bay. (Quán phong tri lãng khởi, ngoạn thủy dã phàm phiêu.)
- Một vầng riêng chiếu non sông lặng, chợt cười một tiếng đất trời kinh. (Cô luân độc chiếu giang sơn tịnh, tự tiếu nhất thanh thiên địa kinh.)
- Mặc đem ba tấc soi trời đất, một câu hợp lý thử bàn xem. (Nhậm tương tam thốn huy thiên địa, nhất cú lâm cơ thức đạo khan.)
- Gặp tay kiếm khách nên trình kiếm, chẳng phải nhà thơ chớ hiến thơ. (Lộ phùng kiếm khách tu trình kiếm, bất thị thi nhân mạc hiến thi.)
Phụng Lâm liền thôi.
Sư để bài tụng:
Đại đạo tuyệt đồng
Nhậm hướng tây đông
Thạch hỏa mạc cập
Điển quang võng thông
Dịch:
Đại đạo hẳn đồng
Mặc hướng tây đông
Đá lửa chẳng kịp
Lằn chớp không thông.
*
Về sau, sư về đến cố hương, đáp lời mời thỉnh của mọi người, trụ tại Thiền uyển Lâm Tế ở thành nam, nơi đây Phổ Hóa đã ở trước.
Một hôm, Sư gọi Phổ Hóa, Khắc Phù đến bảo:
- Ta muốn ở đây dựng lập Tông chỉ Hoàng Bá, hai ông hãy giúp đỡ ta.
Hai vị trân trọng lui ra. Ba ngày sau, Phổ Hóa đến hỏi:
- Ba ngày trước Hòa thượng nói gì?
Sư liền đánh. Ba ngày sau, Khắc Phù lại lên hỏi:
- Ba ngày trước Hòa thượng đánh Phổ Hóa là sao?.
Sư cũng đánh.
*
Một hôm, sư thượng đường nói:
- Các vị, trong nhục thể của con người có một vị chân nhân, thường thông qua cửa mặt của mọi ngươi (Mắt, tai, mũi, lưỡi) mà ra ra, vào vào. Các vị còn có ai không hiểu thì hãy hỏi lão tăng ta.
Lúc đó có ông tăng bước ra hỏi:
- Cái gì là vô vị chân nhân?
Sư bèn hướng về ông tăng đánh lui, nói:
- Vô vị chân nhân là cây quẹt phân.
*
Sư hỏi Lạc Phổ:
- Từ lâu trở lại đây nhà Thiền chúng ta có người dùng gậy, có người dùng tiếng hét, ông cảm thấy điều nào thân thiết?
Lạc Phổ nói:
- Đều rất không thân thiết.
Sư hỏi:
- Thế nào mới coi là thân thiết?
Lạc Phổ liền hét, sư liền đánh.
*
Sư hỏi Hòa thượng Mộc Khẩu:
- Thế nào là bò trắng ngoài đường trống?
Mộc Khẩu làm tiếng kêu ‘Bò, bò’. Sư làm tiếng ‘Nghé, nghé’. Mộc Khẩu hỏi:
- Lão huynh đang làm gì thế?
Sư nói:
- Con súc sanh này!
*
Một hôm, Lâm Tế đang rửa chân trong một chậu nước khi Triệu Châu tới gần tự viện. Khách Triệu Châu gọi lớn:
- Tại sao Sơ Tổ đi đến đông độ?
Lâm Tế làm như không để ý đến vị khách và vẫn tiếp tục rửa chân. Triệu Châu đến trước mặt Sư và nói:
- Tôi hỏi ông, tại sao Sơ Tổ đi đến đông độ?
Khi Lâm Tế vẫn chưa trả lời thì Triệu Châu đã ngã người về phía trước, đặt tay lên lổ tai làm như đang cố nghe câu trả lời của người khác vậy. Lâm Tế bèn đổ chậu nước dơ xuống đất. Mặc dầu Lâm Tế không chỉ Triệu Châu, Lâm Tế có điều này để nói với người đi đến viện Văn Thù:
- Có một số người học đạo, đến núi Ngũ Đài tìm cầu Bồ Tát Văn Thù. Kẻ cầu học đó lầm! Trên núi Ngũ Đài làm gì có Bồ Tát Văn Thù. Mấy ông có muốn biết Văn Thù hay không? Văn Thù ở ngay trước mắt mấy ông đấy! Từ đầu đến cuối không có gì khác. Đừng nghi hoặc bất cứ nơi nào mấy ông đến, đó là Văn Thù sống!
*
Sư hỏi tăng nhân:
- Có lúc một tiếng hét như kiếm báu của Kim Cương Vương, có lúc một tiếng hét như sư tử lông vàng ngồi, có lúc một tiếng hét như bện lông phủ cỏ dụ cá, có lúc một tiếng hét như chẳng phải dụng một tiếng hét, ông lãnh hội thế nào?
Ông tăng chính đang nghĩ ngợi, sư liền hét.
*
Sư thượng đường nói:
- Này các vị học đạo, Phật pháp chẳng có chi là dụng công cả, chỉ là bình thường vô tâm. Đi đại, đi tiểu, mặc áo ăn cơm mệt thì nằm ngủ.
Kẻ ngu cười ta, người trí mới hiểu. Người xưa nói: ‘’Hướng bên ngoài cố công phu, đều là kẻ si mê, ngu độn’’.
*
Sư nói:
- Có một số người học đạo, đến núi Ngũ Đài tìm cầu Bồ-tát Văn Thù. Là nhầm lẫn lắm thay ! Trên núi Ngũ Đài làm gì có Bồ-tát Văn Thù. Các vị định nhận thức Văn Thù phải không? Chỉ tại đương trung ứng dụng trước mặt các vị mà thôi, trước sau không hề biến dị, nơi nơi chẳng nghi hoặc, đó là Văn Thù sống.
*
Sư nói:
- Ba thừa giáo pháp, mười hai bộ kinh đều lấy giấy cũ chùi đồ dơ. Phật là thân hư ảo, Tổ sư là lão tăng lữ. Các vị có phải do mẹ sinh ra không? Các vị định tìm cầu Phật lại bị Phật, ma vồ chụp. Các vị như có điều tìm cầu, đều là chuyện khổ, chẳng bằng vô sự. Có một loại tăng lữ trọc đầu nói với người học đạo: ‘Phật là chân lý chí cực trải qua vô số kiếp tu hành, công quả tròn đầy mới có thể thành Phật’. Các vị học đạo ơi, nếu các vị nói Phật là chân lý chí cực thì tại sao Ngài lại nằm chết dưới hai cây Song lâm tại thành Câu Thi La lúc 80 tuổi? Phật hiện nay ở tại đâu? Hiển nhiên cùng chúng ta một thứ, có sanh là có chết.
*
Sư nói:
- Đến như Phật có đủ sáu loại thần thông thì không như thế ! Phật vào sắc giới không bị sắc mê hoặc, vào thanh giới không bị thanh mê hoặc, vào hương giới không bị hương mê hoặc, vào vị giới không bị vị mê hoặc, vào xúc giới không bị xúc mê hoặc, vào pháp giới không bị pháp mê hoặc. Vì thế nhận thức sáu loại cảnh giới sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp đều là tướng trạng hư ảo. Thế thì sáu loại cảnh giới cũng không thể trói buộc bậc đạo nhân không nương tựa vào đâu.
*
Sư nói:
- Này các vị học đạo, Phật chân thật không có hình dáng, sự vật chân thật không có tướng trạng. Các vị tại sự vật hư ảo làm này làm nọ, nếu có đạt được điều gì thì đó cũng chỉ là chồn rừng, lại không phải Phật thật mà là kiến giải của ngoại đạo. Đến như kẻ học đạo chân chánh thì không tìm cầu Phật, không tìm cầu Bồ-tát, không tìm cầu La-hán, không tìm cầu sự vật tốt đẹp trong tam giới. Cái gì cũng không có, chỉ tự siêu thoát, không cùng ngoại vật ràng buộc. Dù cho trời đất sụp đổ, tuyệt đối cũng không nghi hoặc. Dù cho chư Phật mười phương có hiện ra trước mắt, cũng chẳng sanh một niệm vui mừng. Dù cho tam đồ địa ngục có cùng lúc hiện ra cũng không hề sanh một niệm lo sợ. Tại sao thế? Bởi vì chúng ta nhận thức rằng vạn vật đều là tướng hư ảo, biến hóa thấy có, không biến hóa thấy không. Cái gọi là tam giới cũng từ tâm niệm mà dấy lên muôn ngàn sự vật cũng từ thức biệt mà sanh. Cho nên ảo ảnh trong mơ, hoa đốm hư không thì hà tất phải lao khổ mà tìm cầu !
*
Sư nói:
- Này các vị học đạo, nếu các vị nghĩ muốn đạt đến kiến giải khế hiệp nghĩa lý, thì cũng đừng để người ta dụ hoặc. Hướng trong hướng ngoài hễ gặp là giết: gặp Phật giết Phật, gặp Tổ giết Tổ, gặp La-hán giết La-hán, gặp cha mẹ giết cha mẹ, gặp thân quyến giết thân quyến, mới có thể giải thoát, không câu nệ vật tướng, siêu thoát tự tại.
*
Có người hỏi:
- Thế nào là chỉ ý của Tổ sư Đạt Ma từ Tây lại?
Sư đáp:
- Như quả có chỉ ý thì cứu tự thân còn không nổi.
Lại hỏi:
- Nếu đã không có chỉ ý thì nhị Tổ Huệ Khả làm sao đắc pháp ?
Sư đáp:
- Đắc cũng kể như không đắc.
*
Sư nói:
Như có người tìm cầu Phật, thế là mất Phật. Như có người tìm cầu đạo thế là mất đạo. Như có người tìm kiếm Tổ sư, thế là mất Tổ sư. Này đại đức, đừng có nhầm lẫn nhé ! Ta không vui mừng ông hiểu kinh luận, không vui mừng ông là quốc vương, đại thần; không vui mừng ông biện luận trôi chảy như thác đổ, cũng không mừng ông tự thông minh trí tuệ, chỉ cần ông có kiến giải chân chánh. Này các vị học đạo, giá như có thể giảng thuyết trăm bộ kinh luận, cũng không bằng ông tăng vô sự.
*
Có một hôm, quan Thường thị họ Vương đến thăm, cùng sư đi đến trước tăng đường nhìn ngắm. Quan Thường thị hỏi:
- Những người trong tăng đường này có xem kinh không?
Sư đáp:
- Không xem kinh.
Thường thị lại hỏi:
- Có học Thiền không?
Sư đáp:
- Không học Thiền.
Thường thị hỏi:
- Kinh đã không mà Thiền cũng không học vậy thì rốt lại làm cái gì?
Sư đáp:
- Dạy họ thành Phật, làm Tổ.
*
Phủ chủ Vương Thường Thị cùng các quan thỉnh Sư đăng tòa. Sư thượng đường bảo:
- Hôm nay sự bất đắc dĩ, Sơn tăng chiều theo nhân tình mới lên tòa này. Nếu nhằm dưới cửa Tổ tông, khen ngợi việc lớn, hẳn là mở miệng chẳng đặng, không có chỗ các ông để chân. Hôm nay, do Thường Thị cố thỉnh, Sơn tăng tạm ẩn cương tông. Trong đây nếu có tác gia (bậc minh sư) chiến tướng liền xổ cờ bày trận đi! đối chúng chứng cứ xem.
Tăng hỏi:
- Thế nào là đại ý Phật pháp?
Sư liền hét! Tăng lễ bái. Sư bảo:
- Ông Thầy này lại nên bàn luận.
- Thầy tuyên dương gia khúc tông phong ai? nối pháp vị nào?
- Ta ở chỗ Hoàng Bá ba phen thưa hỏi ba lần bị đánh. Vị Tăng suy nghĩ, Sư liền hét! và theo sau đánh, nói:
- Không thể đến trong hư không mà đóng đinh.
*
Có Tọa chủ hỏi:
- Ba thừa và mười hai phần giáo đâu chẳng phải chỉ rõ Phật tánh?
Sư đáp:
- Cỏ hoang chưa từng cuốc.
- Phật đâu dối người?
- Phật ở chỗ nào?
Tọa chủ không đáp được. Sư tiếp:
- Ở trước Thường Thị định làm mờ Lão tăng, lui mau! lui mau! làm chướng ngại người khác thưa hỏi.
Hôm nay pháp hội vì một đại sự, lại có người thưa hỏi chăng? mau đến hỏi đi. Ông vừa mở miệng đã chẳng dính dáng. Vì sao như thế? Đâu chẳng nghe Thích Tôn nói: “Pháp lìa văn tự, vì chẳng thuộc nhân chẳng ở duyên”. Bởi các ông tin chẳng đến, cho nên ngày nay mới dùng phương tiện (cát đằng) sợ e Thường Thị cùng các quan viên lầm Phật tánh ấy, chi bằng hãy lui.
Sư hét một tiếng! nói tiếp: Người gốc tin kém, trọn không có ngày xong, đứng lâu, trân trọng!
*
Có vị thượng tọa tên Định đến tham yết hỏi:
- Đại ý của Phật pháp là gì?
Sư bước xuống giường Thiền chộp lấy ông ta vả một bạt tai rồi xô ra. Thượng tọa Định xững vững vừa mới đứng lại được thì có ông tăng bên cạnh nói:
- Thượng tọa Định vì sao còn chưa lễ bái tạ ơn Hòa thượng?!
Thượng tọa Định vừa lễ bái thì bỗng nhiên bừng ngộ.
*
Đại Giác đến tham vấn Lâm Tế. Sư cất cây xơ quất lên Đại Giác trải tọa cụ ra. Sư ném cây xơ quất xuống, Đại Giác xếp lại tọa cụ đi vào tăng đường. Chúng tăng hỏi:
- Ông tăng ấy có phải là người thân của Hòa thượng chăng? Đã không lễ bái Hòa thượng mà lại không ăn gậy của Hòa thượng?
Sư nghe xong sai người gọi Đại Giác ra hỏi:
- Mọi người nói ông không tham kiến trưởng lão?
Đại Giác nói:
- Xin chào.
Rồi liền tự trở lại tăng đường.
Sư thượng đường nói:
- Các vị, người cầu pháp nên để sanh tử ở ngoài, không né tránh chuyện táng thân, bỏ mạng. Lúc ta ở chỗ Hòa thượng Hoàng Bá, từng ba phen bị gậy bổ. Tưởng đến sự thân thiết bổ gậy của Hoàng Bá lúc ban sơ, giờ đây thèm ăn một trận đòn gậy của Hòa thượng, ai có thể ra tay cho ta ăn một gậy?
Lúc đó, có ông tăng nói:
- Con sẽ ra tay, Hòa thượng định ăn ít nhiều gậy đây?
Sư đưa gậy ra, ông tăng dang tay ra nhận, sư thuận tay bổ ông ta một gậy.
*
Chư Thiền đức! Thời nay chẳng gặp, muôn kiếp ngàn đời luân hồi tam giới, chạy theo cảnh thích rồi phải sanh trong bụng trâu bụng lừa… Đạo lưu! Nhằm chỗ thấy của Sơn tăng cùng Thích-ca không khác. Hiện nay nhiều chỗ ứng dụng, kém thiếu cái gì? Sáu đường thần quang chưa từng cách dứt. Nếu hay thấy được như thế, chỉ một đời làm người vô sự.
*
Đại đức! Ba cõi không yên như trong nhà lửa, đây không phải là chỗ các ông dừng ở lâu, quỉ vô thường giết người trong khoảng chớp mắt chẳng lựa người sang kẻ hèn, người già kẻ trẻ. Các ông muốn cùng Phật Tổ chẳng khác, chỉ chớ tìm kiếm bên ngoài. Trên một tâm niệm thanh tịnh sáng suốt của ông là ngôi nhà Phật pháp thân của ông. Trên một tâm niệm vô phân biệt sáng suốt của ông là ngôi nhà Phật báo thân của ông. Trên một tâm niệm vô sai biệt sáng suốt là ngôi nhà Phật hóa thân của ông. Ba thứ thân này là người hiện nay ở trước mắt nghe pháp của ông. Chỉ không tìm kiếm bên ngoài, liền có công dụng này. Theo các nhà Kinh Luận lấy ba thân này làm nguyên tắc tột cùng. Nhằm chỗ thấy của Sơn tăng thì chẳng phải vậy. Ba thân này là danh ngôn, cũng là ba thứ y. Người xưa nói: “Thân y nghĩa lập, cõi cứ thế bàn”. Pháp tánh thân, pháp tánh độ biết rõ là quang ảnh (bóng sáng).
Đại đức! Các ông hãy nhận biết người đùa quang ảnh, là nguồn gốc tất cả chỗ của chư Phật, là chỗ các ông về nhà. Xác thân tứ đại của các ông không biết thuyết pháp, nghe pháp. Gan mật dạ dày ruột không biết thuyết pháp, nghe pháp. Hư không chẳng biết thuyết pháp, nghe pháp? Là một cái “riêng sáng hiện bày rõ ràng” ở trước mắt ông, nó biết thuyết pháp, nghe pháp. Nếu thấy được như thế đã cùng Phật, Tổ không khác, chỉ trong tất cả thời đừng cho gián đoạn, chạm mắt đều phải. Chỉ vì tình sanh trí cách, tưởng dấy thể sai. Do đó, luân hồi trong tam giới, chịu các thứ khổ. Nếu nhằm chỗ thấy của Sơn tăng thật là rất sâu, thật là giải thoát.
*
Đạo lưu! Tâm pháp không hình thông suốt mười phương, ở mắt gọi thấy, ở tai gọi nghe, ở mũi gọi ngửi, ở miệng nói bàn, ở tay nắm bắt, ở chân đi chạy, vốn là một tinh minh phân làm sáu hòa hợp. Một tâm đã không, tùy chỗ giải thoát. Sơn tăng nói thế ấy, ý ở chỗ nào? Chỉ vì tất cả các ông chạy tìm tâm không thể dừng, leo lên cơ cảnh nhàn của cổ nhân. Các ông nhận được chỗ thấy của Sơn tăng, ngồi chặt đầu Phật Báo, Hóa. Hằng mãn tâm thập địa ví như nhận khách làm con. Bậc Đẳng giác là kẻ mang gông xiềng. La-hán, Bích-chi ví như xí uế. Bồ-đề Niết-bàn như cọc cột lừa. Vì sao như thế? Chỉ vì các ông không thấu được ba kỳ kiếp là không, nên có chướng ngại này. Nếu là đạo nhân chân chánh trọn chẳng như thế, chỉ “tùy duyên tiêu nghiệp cũ, hồn nhiên mặc áo xiêm”, cần đi thì đi, cần ngồi thì ngồi, tâm không một niệm mong cầu quả Phật. Bởi đâu như thế? Cổ nhân nói: “Nếu muốn làm việc cầu Phật, Phật là điềm lớn sanh tử”.
*
Đại đức! thời giờ đáng tiếc, chỉ tính đến nhà bên lăng xăng học thiền học đạo, nhận danh nhận cú, cầu Phật cầu Tổ, cầu Thiện tri thức độ. Chớ lầm! Các ông sẵn có một cha mẹ, lại cầu vật gì? Các ông tự phản chiếu xem! Cổ nhân nói: “Diễn-nhã-đạt-đa quên mất đầu, tâm cầu dứt sạch liền vô sự.”
Đại đức! cần yếu bình thường chớ tạo hình thức. Có một bọn tớ trọc chẳng biết tốt xấu, thấy thần thấy quỉ, chỉ đông vẽ tây, thích mưa thích tạnh. Bọn như thế đáng quở trách, có ngày đến trước lão Diêm vương bị nuốt hoàn sắt nóng. Kẻ nam nữ tốt tại gia bị bọn tinh mị dã hồ này mê hoặc, liền tác quái; có ngày quên mất hết những điều cần yếu trong cuộc sống thanh bạch của mình.
*
Có vị Tăng hỏi:
- Thế nào là chân Phật, chân pháp, chân đạo xin Thầy chỉ dạy?
Sư đáp:
- Phật là tâm thanh tịnh, Pháp là tâm sáng suốt, Đạo là mỗi chỗ không ngại. Tịnh, sáng… tuy ba mà một, đều là danh từ suông không thật có. Người chân chánh đạo nhân niệm niệm tâm không gián đoạn. Đại sư Đạt-ma từ phương Tây đến, chỉ tìm cái người chẳng bị người gạt. Nhị Tổ một câu nói liền liễu ngộ, mới biết từ trước uổng dụng công phu. Hiện nay Sơn tăng chỗ thấy cùng Phật Tổ không khác. Nếu trong đệ nhất cú tiến được, kham cùng Phật Tổ làm thầy. Nếu trong đệ nhị cú tiến được, kham cùng trời người làm thầy. Nếu trong đệ tam cú tiến được, tự cứu chẳng xong.
Tăng hỏi:
- Thế nào là đệ nhất cú?
Sư đáp:
- Tam yếu ấn khai điểm son hẹp, chưa cho nghĩ nghị chủ khách phân.
(Tam yếu ấn khai chu điểm trách, vị dung nghĩ nghị chủ tân phân)
- Thế nào là đệ nhị cú?
- Diệu giải đâu cho không đến hỏi, bọt tan nào dễ chặn dòng sông.
(Điệu giải khởi dung vô trước vấn, âu hòa tranh phụ tiệt lưu cơ)
- Thế nào là đệ tam cú?
- Chỉ xem tượng gỗ đùa trên gác, lôi kéo toàn nhờ người ẩn trong.
Sư lại bảo:
- Phàm người diễn xướng tông thừa trong một câu phải đủ ba huyền môn, mỗi huyền môn phải đủ tam yếu. Có quyền có thật, có chiếu có dụng. Các ông làm sao được hội?
*
Sư dạy chúng:
- Đạo lưu (đồng đạo)! Cốt tìm lấy kiến giải chân chánh, dọc ngang trong thiên hạ, khỏi bị bọn yêu tinh hoặc loạn, vô sự là người quí, chớ tạo tác, chỉ là bình thường. Các ông nghĩ hướng nhà bên cầu vượt qua, tìm ngón tay gót chân, lầm rồi! Chỉ nghĩ cầu Phật, Phật là danh cú. Các ông lại biết chạy tìm chăng? Ba đời mười phương Phật Tổ ra đời cũng chỉ vì cầu Pháp. Như Đạo lưu hiện nay tham học cũng chỉ vì cầu Pháp, được pháp mới xong, chưa được vẫn như trước luân hồi trong năm đường.
Thế nào là PHÁP? Pháp là tâm pháp, tâm pháp không hình thông suốt mười phương, hiện dụng trước mắt. Người tin không đến, bèn nhận danh nhận cú, hướng trong danh tự cầu, ý suy xét Phật pháp, cách xa trời đất.
Đạo lưu! Sơn tăng nói pháp, là nói pháp gì? Nói pháp tâm địa, hay vào phàm vào thánh, vào tịnh vào uế, vào chân vào tục. Hẳn chẳng phải các ông là chân tục phàm thánh, mà hay cùng chân tục phàm thánh an bài danh tự. Chân tục phàm thánh cùng người này an bài danh tự chẳng được.
Đạo lưu! Nắm được liền dùng chẳng mắc danh tự, gọi đó là HUYỀN CHỈ. Sơn tăng nói pháp cùng mọi người khác. Như có Văn-thù, Phổ Hiền xuất hiện trước mắt, mỗi vị hiện một thân hỏi pháp, vừa nói: “thưa Hòa thượng”, tôi đã biết rõ. Lão tăng ngồi yên, lại có đạo lưu đến thấy nhau, tôi trọn hiểu rành. Tại sao như thế? Chỉ vì chỗ thấy của tôi khác, ngoài chẳng nhận phàm thánh, trong chẳng trụ căn bản, thấy suốt chẳng còn nghi lầm.
*
Sư dạy chúng:
- Đạo lưu! Phật pháp không có chỗ dụng công, chỉ bình thường vô sự. Đi đại đi tiểu, mặc áo ăn cơm, nhọc đến thì nằm, người ngu cười ta, kẻ trí biết ta. Người xưa nói: “Làm công phu bên ngoài, thảy là kẻ ngu si”. Các ngươi phải tùy thời làm chủ, ngay đó đều chân, cảnh đến lôi kéo chẳng được, dù có tập khí nghiệp địa ngục vô gián, tự chuyển thành biển lớn giải thoát.
Học giả thời nay hoàn toàn không biết pháp, ví như nắm mũi con dê để đồ vào miệng nó, không biện kẻ tớ người sang, chẳng rành chủ khách. Bọn như thế tâm tà vào đạo. Chỗ ồn vào chẳng được, gọi là người chân xuất gia, chính là người chân tại gia.
Người xuất gia phải biện được kiến giải chân chánh bình thường, biết Phật biết ma, rành chân rành ngụy, rõ phàm rõ thánh. Nếu biện được như thế, gọi là chân xuất gia. Nếu ma Phật không biết, chính là xuất gia này vào gia kia, gọi là chúng sanh tạo nghiệp chưa được gọi là người chân xuất gia.
Hiện nay có cái ma Phật đồng thể chẳng phân, như nước với sữa hợp. Chỉ có con ngỗng chúa mới biết uống sữa chừa nước. Hàng đạo lưu mắt sáng ma Phật đều đánh. Các người nếu mến Phật ghét phàm, thì phải trôi nổi trong biển sanh tử.
*
Hỏi:
- Thế nào là Phật là ma?
Sư đáp:
- Ngươi vừa khởi một niệm tâm nghi ấy là ma. Nếu ngươi đạt được muôn pháp không sanh, tâm như huyễn hóa, không có một hạt bụi, một pháp, ngay đó liền thanh tịnh là Phật. Song Phật cùng ma là hai cảnh nhiễm tịnh. Nếu chỗ thấy của Sơn tăng, không Phật không chúng sanh, không xưa không nay, được liền đó được, chẳng trải qua thời tiết, không tu không chứng, không được không mất, trong tất cả thời lại không có một pháp riêng. Dù là một pháp vượt hơn cái này, ta nói như mộng như hóa.
Sơn tăng nói ra đều phải, hiện nay trước mắt đạo lưu riêng sáng rỡ lắng nghe. Người này nơi nơi chẳng kẹt, thấu suốt mười phương, tự tại trong tam giới, vào tất cả cảnh sai biệt không thể lôi kéo, trong khoảng sát-na vào tột pháp giới, gặp Phật nói Phật, gặp Tổ nói Tổ, gặp La-hán nói La-hán, gặp ngạ quỉ nói ngạ quỉ, đi tất cả chỗ dạo các cõi nước, giáo hóa chúng sanh, mà chưa từng lìa một niệm, tùy chỗ thanh tịnh, ánh sáng thấu mười phương, muôn pháp nhất như. Đạo lưu! Kẻ đại trượng phu hiện đây mới biết xưa nay vô sự. Chỉ vì các ngươi chẳng tin đến, niệm niệm tìm cầu, bỏ đầu tìm đầu, tự không thể thôi, như các vị Bồ-tát viên đốn mà vào trong pháp giới hiện thân. Nhằm trong tịnh độ chán phàm mến thánh, bọn người như thế chưa quên bỏ lấy, tâm nhiễm tịnh vẫn còn. Kiến giải Thiền tông chẳng phải như vậy, thẳng trong hiện tại lại không thời tiết.
Sơn tăng nói ra đều là một lúc thuốc trị bệnh nhau, trọn không có pháp thật. Nếu thấy được như vậy là người chân xuất gia, mỗi ngày tiêu muôn lượng vàng cũng được.
Đạo lưu! Chớ chấp lấy, sẽ bị các bậc Lão sư đập bể cửa mặt. Nói rằng ta hiểu thiền hiểu đạo, biện luận thao thao như nước chảy, đều là người tạo nghiệp địa ngục. Nếu là người chân chánh học đạo, chẳng tìm lỗi của thế gian, cấp bách cầu kiến giải chân chánh, mới mong tròn sáng xong xuôi.
*
Hỏi:
- Thế nào là kiến giải chân chánh?
Sư đáp:
- Ngươi chỉ tất cả vào phàm vào thánh, vào nhiễm vào tịnh, vào cõi nước chư Phật, vào lầu các đức Di-lặc, vào pháp giới Tỳ-lô-giá-na, chỗ chỗ đều hiện; cõi nước thành trụ hoại không, Phật ra đời chuyển đại pháp luân lại nhập Niết-bàn, chẳng thấy có tướng mạo đi lại, tìm cái sanh tử của Ngài trọn không thể được, liền vào pháp giới vô sanh; nơi nơi dạo qua các cõi nước, vào thế giới Hoa tạng, trọn thấy các pháp không tướng, đều không Phật pháp, chỉ có Đạo nhân vô y (không chỗ nương) nghe pháp. Đó là mẹ chư Phật, bởi vì chư Phật đều từ vô y (không chỗ nương) sanh. Nếu ngộ vô y (không chỗ nương), Phật cũng không thể được. Nếu người thấy được như thế, là kiến giải chân chánh.
Người học không hiểu chấp danh cú, bị danh phàm thánh làm ngại. Do đó, chướng ngại đạo nhãn không được phân minh. Mười hai phần giáo nói ra đều cốt biểu hiển lẽ này, học giả không hội, bèn nhằm trên danh cú biểu hiển sanh hiểu, đều là nương tựa rơi tại nhân quả, chưa khỏi sanh tử trong tam giới.
Các ngươi nếu muốn trong sanh tử đi đứng tự do, tới lui tự tại thì, hiện nay nên biết người nghe pháp này. Y không hình không tướng, không cội không gốc, không chỗ ở, mà hoạt bát rõ ràng, ứng hiện muôn thứ hành động, chỗ dùng chỉ là không chỗ. Bởi đó, càng tìm càng xa, cầu đó thì trái, gọi đó là bí mật.
Đạo lưu! Các ngươi chớ nhận lấy kẻ bạn mộng huyễn, trong khoảng sớm chiều sẽ trở về vô thường. Các ngươi đến trong thế giới này tìm vật gì làm giải thoát? Tìm lấy một bữa cơm mà ăn, mặc áo vá qua ngày, chỉ cốt phỏng tầm tri thức. Chớ theo đuổi thú vui, ngày giờ đáng tiếc, niệm niệm vô thường, nếu thô thì bị bốn thứ đất nước lửa gió ép ngặt, tế thì bị sanh trụ dị diệt bức bách.
Đạo lưu! Thời nay cần biết bốn cảnh vô tướng, mới khỏi bị cảnh kéo lôi.
*
Hỏi:
- Thế nào là bốn cảnh vô tướng?
Sư đáp:
- Các ngươi một niệm tâm nghi bị đất làm ngại. Các ngươi một niệm tâm ái bị nước nhận chìm. Các ngươi một niệm tâm sân bị lửa đốt cháy. Các ngươi một niệm tâm hỉ bị gió thổi bay. Nếu khéo biện được như thế chẳng bị cảnh chuyển. Nơi nơi dùng được cảnh, vọt bên đông lặn bên tây, vọt bên nam lặn bên bắc, vọt ở giữa lặn ở bên, vọt ở bên lặn ở giữa, đi trên nước như đất, đi trên đất như nước. Bởi sao được như vậy? Vì đạt bốn đại như mộng huyễn.
Đạo lưu! Các ngươi hiện nay biết nghe pháp, chẳng phải tứ đại của các ngươi, cái biết ấy hay dùng được tứ đại. Nếu khéo thấy được như thế, là đi đứng tự do. Chỗ thấy của Sơn tăng chẳng ngờ pháp ấy. Các ngươi nếu mến Thánh thì, Thánh chỉ là tên Thánh. Có một nhóm người học đạo nhắm trong Ngũ Đài Sơn tìm Văn-thù, trọn đã lầm vậy. Trong Ngũ Đài Sơn không có Văn-thù. Các ngươi muốn biết Văn-thù chăng? Chỉ cái dùng trước mắt các ngươi trước sau chẳng khác, nơi nơi chẳng nghi, cái ấy là Văn-thù sống. Các ngươi một tâm niệm sáng không sai biệt, nơi nơi thảy là chân Phổ Hiền. Các ngươi một tâm niệm tự hay mở trói, tùy chỗ giải thoát, đây là Quan Thế Âm. Ba pháp lẫn nhau làm chủ bạn, ra thì đồng thời ra, một tức ba, ba tức một. Hiểu được như thế, mới nên xem kinh.
Hỏi:
- Ý Tổ sư từ phương tây sang thế nào?
Sư đáp:
- Nếu có ý tự cứu chẳng xong.
Hỏi:
- Đã không ý làm sao Nhị Tổ được pháp?
Sư đáp:
- Được đó là chẳng được.
- Nếu đã chẳng được, thế nào là ý chẳng được?
- Vì nhằm tất cả chỗ tìm kiếm tâm không thể thôi.
Do đó, Tổ Sư nói: “Dốt thay! Đại trượng phu đem đầu tìm đầu”. Ngươi ngay lời nói này liền tự hồi quang phản chiếu, chẳng cầu cái gì khác, biết thân tâm cùng Phật Tổ chẳng khác, liền đó vô sự mới gọi là được pháp.
Đại đức! Sơn tăng hôm nay sự bất đắc dĩ nói ra khá nhiều điều vụng về. Các ngươi chớ nhận lầm. Theo chỗ thấy của tôi, thật không chấp nhận các thứ đạo lý nhiều như thế, cần dùng liền dùng, chẳng dùng liền thôi. Các nơi nói lục độ vạn hạnh cho là Phật pháp. Tôi nói đó là cửa trang nghiêm, cửa Phật sự, chẳng phải là Phật pháp. Cho đến, trì trai giữ giới như bưng dầu chẳng nghiêng, nếu đạo nhãn chẳng sáng trọn có ngày phải đền lại nợ cơm tiền. Vì sao như thế? Vì, học đạo chẳng thông lý, đem thân đền tín thí, trưởng giả tuổi tám mốt, cây kia chẳng sanh nhĩ. Nhẫn đến ở trên chót núi, một ngày ăn một bữa, thường ngồi chẳng nằm, sáu thời hành đạo, vẫn là người tạo nghiệp. Hoặc đem đầu mắt tủy não, vợ con đất nước, voi ngựa bảy báu hoàn toàn thí xả; hành động như thế đều là làm khổ thân tâm, lại chuốc quả khổ. Đâu bằng vô sự thuần nhất không tạp. Những hàng Bồ-tát thập địa mãn tâm muốn tìm dấu vết của vị này trọn không thể được. Do đó, chư thiên vui mừng, địa thần nâng chân, chư Phật mười phương thảy đều khen ngợi. Bởi sao như thế? - Vì đạo nhân hiện nghe pháp, chỗ dùng không dấu vết vậy.
*
Một hôm Sư cùng Hà Dương, Trưởng lão Mộc Tháp đồng ở tại Tăng đường ngồi quanh lò lửa. Nhân nói chuyện Phổ Hóa mỗi ngày ở ngoài đường chợ chụp gió chụp đầu, biết y là phàm là thánh? Nói chưa xong, Phổ Hóa vào chúng đi đến. Sư liền hỏi: “Ngươi là phàm là thánh?” Phổ Hóa nói: “Ông hãy nói tôi là phàm là thánh?” Sư liền hét! Phổ Hóa lấy tay chỉ nói: “Hà Dương kẻ tân phụ [Tân phụ là cô gái mới có chồng.] Mộc Tháp thiền Lão bà, Lâm Tế đứa tớ nhỏ, lại đủ một con mắt.” Sư bảo: “Kẻ giặc.” Phổ Hóa nói: “giặc, giặc”, liền đi ra.
Vương Thường Thị đến thưa hỏi Sư, theo Sư đến trước Tăng đường, xem xong liền hỏi:
- Tăng cả nhà này có xem kinh chăng?
Sư đáp:
- Chẳng xem kinh.
Thị hỏi:
- Lại học thiền chăng?
Sư đáp:
- Chẳng học thiền.
Thị nói:
- Kinh đã chẳng xem, thiền lại chẳng học, cứu kính làm cái gì?
Sư đáp:
- Thảy dạy y làm Phật tác Tổ.
Thị nói:
- Mạt vàng tuy quí, rơi vào con mắt thành bệnh, lại làm sao?
Sư bảo:
- Sẽ bảo ông là kẻ thế tục.
*
Một hôm, Phổ Hóa ở trong chợ đến mọi người xin chiếc áo dài, mọi người đều cho, Phổ Hóa đều chẳng nhận. Sư dạy Viện chủ mua một quan tài. Phổ Hóa về đến, Sư bảo: “Tôi đã vì ông sắm chiếc áo dài rồi.” Phổ Hóa liền tự vác đi. Phổ Hóa đi quanh đường chợ rao: “Lâm Tế cho tôi chiếc áo dài rồi, tôi sang cửa đông tịch.” Người trong chợ đua nhau đến xem. Phổ Hóa bảo: “Tôi ngày nay chưa tịch, ngày mai sang cửa nam mới tịch.” Như thế đến ba ngày, mọi người đều chẳng tin. Đến ngày thứ tư, không ai theo xem, một mình Phổ Hóa tự chun vào quan tài, nhờ người đi đường đậy nắp lại. Tin truyền đi mọi người trong chợ đua nhau đến giở quan tài xem, không thấy thi hài Phổ Hóa, chỉ nghe trong hư không tiếng mõ xa dần rồi mất.
*
Một hôm, Thiền sư Lâm Tế thấy một vị Tăng đến gần, Sư giơ cây phất trần lên. Vị Tăng lễ bái, nhưng Lâm Tế đánh vị Tăng. Một lúc sau, có một vị Tăng khác đến. Sư lại giơ cây phất trần lên. Vị Tăng không kính lễ Sư, Sư cũng đánh vị Tăng này. Lâm Tế. Lễ bái hay không lễ bái rõ ràng không phải là nguyên nhân của việc đánh. Sự kiện là ngay sau khi Lâm Tế thấy hai vị Tăng, Sư biết hai vị Tăng này thuộc loại người nào. Không kể là họ lễ bái hay không, Sư đều đánh cả hai. Điều này chứng tỏ một cách rõ ràng cái mà Thiền sư Lâm Tế quan tâm không phải là hành động bên ngoài mà là sự thực chứng bên trong của người ấy.
Vào hôm khác, Lâm Tế nói với các đệ tử của mình: “Mấy ông muốn biết Phật hay Tổ? Ông ấy không khác gì chính mấy ông, chỉ giống như mấy ông ngay lúc này, đứng đây và đang lắng nghe lời lão Tăng đang nói. Chỉ vì mấy ông thiếu lòng tin nơi chính mình vì vậy mà chạy đông chạy tây tìm cầu Phật Tổ từ bên ngoài. Ngay khi mấy ông tìm được cái gì đó, cái mà mấy ông tìm được không gì khác hơn là văn tự và mấy ông sẽ không đạt được cái tâm sinh động của Phật Tổ”.
Một dịp khác nữa, Thiền sư Lâm Tế thượng đường dạy chúng: "Các thiền sinh thời bây giờ hoàn toàn mù tịt về chân lý. Họ giống như những chú cừu già nua, vơ hết cả những gì mà họ vấp phải dưới chân họ. Họ không phân biệt được giữa tớ và chủ, hay giữa khách và chủ. Những người như vầy đi vào Thiền với tâm thức lệch lạc, và hoàn toàn không có khả năng tu tập một cách hiệu quả khi đi vào những hoàn cảnh năng động. Người ta có thể kêu họ là những người được sơ tâm điểm đạo, nhưng thật sự họ chỉ là những kẻ thế tục tầm thường. Những người thật sự buông bỏ phải làm chủ được khả năng nhận thức đúng đắn, để phân biệt được người giác ngộ và kẻ bị ma ám, cái thật và cái giả, nhà hiền triết và kẻ suy đồi. Nếu mấy ông có được những biện biệt rõ ràng như thế, người ta có thể nói là mấy ông đã thật sự rời bỏ những lệ thuộc. Bây giờ mấy ông có thể thấy được tà ma ám chướng đối với Phật giáo đang lẫn lộn với sự việc chân thật. Những người sáng suốt đã từ bỏ hẵn ma chướng cùng lúc với Phật giáo. Nếu tôn sùng cái thiêng liêng và khinh khi cái phàm tục, mấy ông vẫn còn là những cái bọt bong bóng trong đại dương mê hoặc".
*
Một hôm, Thiền sư Lâm Tế thượng đường dạy chúng, nói:
- Thân gồm tứ đại của mấy ông: đất, nước, lửa, gió. Tuy nhiên, không có thứ nào có thể nghe hay hiểu lời giảng dạy của lão Tăng. Tỳ vị cũng chẳng hiểu. Hư không cũng chẳng hiểu. Vậy thì ai nghe đây? Ai hiểu đây?
Thiền sư chỉ ra một điểm tương đồng khi ngài hỏi chúng Tăng:
- Ngay vào lúc này, trước mắt mấy ông, ai là người đang nghe lời giảng?
Phương pháp học của Lâm Tế không chỉ hạn chế vào sự phô diễn về thể chất. Nếu hoàn cảnh thích hợp, cũng như lúc Sư diễn tả về vô vị chân nhân, Sư cũng sẵn lòng sử dụng ngôn ngữ. Một vị Tăng hỏi Sư về ý nghĩa của việc Sơ Tổ đến đông độ, và Lâm Tế nói: “Nếu có ý nghĩa nào trong đó, không ai có thể tự cứu lấy mình.
Vị Tăng vẫn khư khư hỏi:
- Nếu không có ý nghĩa gì, vậy thì Nhị Tổ đạt được gì từ Sơ Tổ?
Lâm Tế nói:
- Cái mà ông gọi là 'đạt được' thật sự là thứ 'không đạt được.
Vị Tăng lại hỏi:
- Thứ chẳng đạt được là nghĩa gì?
Lâm Tế nói:
- Vì tâm ông theo đuổi mọi thứ đến trước nó mà không thu thúc, Tổ diễn tả ông như một người ngu đi tìm cái đầu thứ hai trong khi ông đã có sẵn một cái rồi. Nếu, thay vì đi tìm thứ gì đó bên ngoài, ông đưa sự chú ý vào bên trong như ông đã được hướng dẫn, thì ông sẽ nhận ra rằng tâm ông nào khác gì tâm của chư Phật và chư Tổ. Khi ông đến được trạng thái vô tác này, tức là ông đã đạt được chơn lý vậy.
Một hôm, Thiền sư Lâm Tế Nghĩa Huyền thượng đường dạy chúng, nói:
- Này, mấy ông tìm cầu chân lý! Muốn ngộ vào Thiền, chớ để thiên hạ phỉnh mình. Trong cũng như ngoài, gặp chướng ngại nào, cứ đạp ngã ngay; gặp Phật giết Phật, gặp Tổ giết Tổ, gặp La Hán hoặc cha mẹ hay họ hàng thân thiết, giết hết, chớ ngần ngại, vì đó chính là con đường độc nhất để giải thoát. Đừng để bất cứ ngoại vật nào trói buộc mình; hãy vượt lên, hãy bước qua, hãy tự do. Tôi thấy suốt trong thiên hạ những vị gọi là cầu đạo không ông nào đến với tôi tự do độc lập hết. Hễ gặp việc, tôi đạp nhào hết, không cần biết họ đến với tôi bằng cách nào. Họ ỷ mạnh tay, tôi chặt đứt tay; họ ỷ giỏi nói, tôi bóp câm miệng; họ ỷ tinh mắt, tôi đập đui mắt. Quả thật bao năm rồi chưa một ông nào đơn độc đối diện với tôi, mà hoàn toàn tự do, hoàn toàn độc lập. Ông nào cũng mắc phải như nhau những trò lừa dối không đâu của hàng cổ đức. Tôi không có gì để cho mấy ông. Tất cả những gì tôi có thể làm được là tùy bịnh mà cho thuốc, là giải phóng cho mấy ông thoát khỏi tất cả mọi triền phược.
Thật vậy, Thiền muốn xóa bỏ tất cả, nếu được, cả đến dấu vết cuối cùng của tư tưởng về Phật về Tổ. Đó là lý do tại sao thiền sư Triệu Châu khuyên nhủ hành giả "Chỗ nào có Phật chớ đứng lại. Chỗ nào không Phật chạy lẹ qua." Tất cả công phu tu tập của Thiền Tăng, lý thuyết cũng như thực hành, đều đặt trên căn bản "hành động không công đức" này. Nói một cách thơ mộng hơn như sau:
"Bóng trúc quét trên thềm nhà,
Mà không một hạt bụi dấy lên.
Ánh trăng rơi trong lòng nước,
Mà không dấu vết gì lưu lại."
Thật vậy, khi tâm hoàn toàn gội sạch tất cả cảm nhiễm chồng chất từ vô lượng kiếp thì hiện thực trong trạng thái trần truồng, không hóa trang, không che đậy. Đó là lúc tâm hiện thực là tâm, tự do, trống không, chân thực, phục hồi lại uy thế nguyên sơ của nó. Vì vậy, trong Thiền, vô chấp là một khái niệm tích cực, chứ không ngụ ý khiếm khuyết. Hành giả tu Thiền nên luôn nhớ rằng thật ra đây chỉ là lời khuyên chúng ta không nên quá câu chấp vào cảnh giới trong lúc tu tập thiền định nhằm giúp hành giả phá trừ sự chấp trước vào khái niệm hay hình tướng của Phật. Thấy Phật đến mà không tiếp nhận hình ảnh nầy, huống chi là thấy ma. Tuy rằng trong nhiều trường hợp các cảnh giới đó là những dấu hiệu báo trước những mức độ thành tựu của chúng ta, chúng ta không nên tin vào.
*
Khi được hỏi làm cách nào hành giả có thể đạt ngộ, Lâm Tế nói: “Tất cả những gì hành giả nên làm là hãy để ý đến những hoàn cảnh cuộc sống của mình. Thức dậy vào buổi sáng và mặc y áo, rồi đi làm công việc. Khi đói thì ăn; khi mệt thì nghỉ. Tâm không mong cầu quả Phật. Ngay một niệm nhỏ về việc này cũng không. Cổ nhân nói: “Nếu cố cầu Phật, thì chính việc này là điềm lớn sinh tử”.
Vào một dịp, Thiền sư Lâm Tế quả quyết:
- Cái mà lão Tăng thấy được, sự giác ngộ và sự hiểu biết chân lý của lão Tăng cùng Phật không khác.
Trong một dịp khác, Sư cảnh báo đệ tử của mình không nên quá trọng vọng Phật:
- Lão Tăng nghĩ về Phật cũng giống hệt như cái lổ trong nhà xí vậy thôi.
*
Một hôm, Thiền sư Lâm Tế thượng đường dạy chúng, nói: “Này, mấy ông tìm cầu chân lý! mấy ông có xứng đáng nhận danh nhận cú khi vẫn còn giải khuây với những ý tưởng sai lầm về Thiền. Lão Tăng nói cho mấy ông biết, không có giáo pháp thiêng liêng, không có kỹ luật, cũng không có gì là chứng tỏ cả! Mấy ông làm gì khi chỉ tính đến việc chạy đến nhà bên lăng xăng học Thiền học đạo? Này, mấy ông tìm cầu chân lý! Mấy ông đang thêm đầu vào đầu của chính mình đấy! Mấy ông tự mình thiếu thứ gì? Này, mấy ông tìm cầu chân lý, cái mà mấy ông tận dụng ngay trong lúc này chẳng khác gì cái làm ra một vị Tổ hay một vị Phật. Nhưng mấy ông lại chẳng tin lão Tăng, và chỉ tầm cầu bên ngoài. Đừng tự mình mắc phải sai phạm. Chẳng có hiện thực nào ở bên ngoài cả, mà cũng chẳng có thứ gì ở bên trong để cho mấy ông đặt tay mình lên nó cả. Hãy gắn chặt vào nghĩa của từng chữ của cái mà lão Tăng nói với mấy ông, nhưng tốt hơn hết là hãy làm cho những chướng ngại của mấy ông ngừng hẵn, và liền đó vô tác mới gọi là được pháp!”.
*
Sau mười năm, Sư rời Lâm Tế Viện bên bờ sông để lui về một ngôi tự viện nhỏ ở Duy Phúc. Một số nhỏ những đệ tử tháp tùng theo Sư, gồm cả Tam Thánh Huệ Nhiên.
Sư sắp tịch ngồi yên bảo:
- Sau khi ta tịch, chẳng được diệt mất chánh pháp nhãn tạng của ta.
Tam Thánh Huệ Nhiên thưa:
- Đâu dám diệt mất chánh pháp nhãn tạng của Hòa thượng.
Sư bảo:
- Về sau có người hỏi, ngươi đáp thế nào?
Tam Thánh liền hét!
Sư bảo:
- Ai biết, chánh pháp nhãn tạng của ta đến bên con lừa mù diệt mất.
Sư nói kệ truyền pháp:
Diên lưu bất chỉ vấn như hà
Chân chiếu vô biên thuyết tợ tha
Ly tướng ly danh như bất bẩm
Xuy mao dụng liễu cấp tu ma
(Theo dòng chẳng dứt hỏi thế nào
Chân chiếu khôn ngằn nói giống ai.
Lìa tướng lìa danh như chẳng nhận
Gươm bén dùng rồi gấp phải mài.)
Nói xong, Sư ngồi an nhiên thị tịch. Nhằm niên hiệu Hàm Thông năm thứ tám (868), ngày 10 tháng giêng năm Đinh Hợi.
Vua ban thụy là Huệ Chiếu Thiền sư tháp hiệu Trừng Linh.
Thiền Sư Lâm Tế có tới 21 người nối pháp. Những lời dạy của sư được lưu giữ lại trong Lâm Tế Ngữ Lục.
---o0o---
Công Án
1) Lâm Tế Chân Nhân
Lâm Tế được tiếng qua việc đối xử rất thô với đệ tử của mình, nhưng người ta cũng thừa nhận rằng phương pháp của Sư có hiệu quả. Lâm Tế Chân Nhân là chủ đề của một công án nói về cơ duyên vấn đáp giữa Thiền sư Lâm Tế Nghĩa Huyền và một vị Tăng tên là Định Châu trong khi Sư đang thượng đường dạy chúng. Theo Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, quyển XII, một hôm sư thượng đường thuyết pháp:
- Các vị, trong nhục thể của con người có một vị chân nhân, thường thông qua cửa mặt của mọi ngươi (Mắt, tai, mũi, lưỡi) mà ra ra, vào vào. Các vị còn có ai không hiểu thì hãy hỏi lão tăng ta.
Lúc đó có ông tăng bước ra hỏi:
- Cái gì là vô vị chân nhân?
Sư bèn hướng về ông tăng đánh lui, nói:
- Vô vị chân nhân là cây quẹt phân.
Nói xong ngài đi thẳng vào phương trượng.
2) Lâm Tế Hạt Lư: Công án nói về cơ duyên vấn đáp giữa Thiền sư Lâm Tế Nghĩa Huyền và Tam Thánh Huệ Nhiên khi Lâm Tế sắp thị tịch. Theo Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, quyển XII, vào năm 867 khi sắp mất, Lâm Tế ngồi ngay thẳng, nói:
- Sau khi ta tịch chẳng được diệt mất Chánh Pháp Nhãn Tạng của ta.
Tam Thánh thưa:
- Đâu dám diệt mất Chánh Pháp Nhãn Tạng của Hòa Thượng.
Lâm Tế bảo:
- Về sau có người hỏi, ngươi đáp thế nào?
Tam Thánh liền hét!
Sư bảo:
- Ai biết Chánh Pháp Nhãn Tạng của ta đến bên con lừa mù diệt mất.
Nói xong sư ngồi thẳng thị tịch
4) Lâm Tế: Manh Manh Tương Dẫn: Người mù dẫn đường cho kẻ đui.
Trong thiền, từ nầy có nghĩa là những người chưa thấu rõ thiền pháp mà lại đi dạy đạo, hậu quả sẽ cực kỳ tai hại cho mọi người. Theo Lâm Tế Ngữ Lục, một hôm, thiền sư Lâm Tế thượng đường dạy chúng:
- Chư Đại đức, hãy biết tiếc cái thời gian. Đừng như những người mù sờ voi, hay đui tu mù luyện. Đừng có làm thói lần mò lê lết mà học Thiền học Đạo, tìm chữ tìm câu, cầu Phật, cầu Tổ, cầu thiện tri thức. Chỉ có một thứ cha mẹ, ngoài thứ này ra các ngài tìm cầu cái gì nữa?. Các ngài hãy tự mình soi rọi lại chính mình. Đức Phật có nói cho chúng ta một câu chuyện về Diễn Nhã nghĩ rằng mình mất đầu, chạy cùng nơi khắp chốn tìm kiếm; nhưng khi biết ra đầu mình chưa hề mất, thành ra một người an bình vô sự. Chư Đại đức, hãy là chính mình, chứ đừng bắt chước trò hề. Có một bọn trọc điên khùng, chẳng biết tốt xấu gì hết, nhìn đâu cũng thấy toàn là quỷ, là thần, chỉ cái này trỏ cái kia. Cầu trời tốt trời mưa. Cái bọn đó, chắc chắn có ngày mang nợ đến trước mặt Diêm Vương, nuốt hòn sắt nóng đỏ mà đền trả. Con trái con gái những gia đình đàng hoàng bị một bọn chồn hoang yêu quái ám làm bại hoại mất tinh khí. Thật là lũ mù khốn khổ! Có ngày chúng phải đền trả đủ hết tiền cơm gạo của đàn na tín thí!
5) Lâm Tế: Nhất Tạt Phiên Thân: Vừa bị đẩy một cái là toàn thân xoay chuyển.
Trong thiền, từ nầy có nghĩa là một khi được vị thiền sư khơi gợi người học liền lãnh hội hoàn toàn yếu chỉ nhà thiền. Theo Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, quyển XII, trước nhất Lâm Tế đến hội Hoàng Bá, và khi đang ở trong hội Hoàng Bá, Sư không học được gì hết vì mỗi lần mở miệng hỏi về đại nghĩa pháp Phật là mỗi lần bị Hoàng Bá đánh. Nhưng chính những trận đòn ấy là "Nhất tạt phiên thân", khi thời cơ đến, đã mở mắt Lâm Tế trên diệu lý Thiền, và khiến sư reo lớn rằng: "Thì ra Thiền Hoàng Bá chả có gì lắm đó!".
6) Lâm Tế Phật Pháp Đại Ý: Công án nói về cơ duyên vấn đáp giữa Thiền sư Lâm Tế Nghĩa Huyền và Định Thượng Tọa.
Theo Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, quyển XII, một hôm, Định Thượng Tọa hỏi Lâm Tế:
- Thế nào là đại ý của pháp Phật?
Lâm Tế bước xuống tòa, nắm lấy Thượng Tọa, xáng cho một bạt tai, rồi xô ra. Định Thượng Tọa đứng khựng. Ông Tăng đứng bên nhắc:
- Định Thượng Tọa, sao không lạy Hòa Thượng đi!
Định Thượng Tọa toan lạy thì ngay lúc ấy hốt nhiên đại ngộ
7) Lâm Tế Tài Tùng: Công án nói về cơ duyên vấn đáp giữa Lâm Tế Nghĩa Huyền và thầy mình là Thiền sư Hoàng Bá Hy Vận. Theo Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, quyển XII:
Sư cùng Hoàng Bá trồng cây tùng. Hoàng Bá nói:
- Trong rừng sâu trồng nhiều cây thế để làm gì?
Sư nói:
- Thứ nhất để người đời sau làm cổ ký, thứ hai để sơn môn làm cột mốc.
Nói đoạn lấy cái mai bổ xuống đất ba cái. Hoàng Bá nói:
- Tuy là như vậy nhưng mà ông ăn gậy của ta rồi.
Sư lại lấy cuốc bổ đất ba cái làm tiếng khóc hu hu. Hoàng Bá nói:
- Thiền tông của ta đến ông, điều dự ghi đó mới ứng nghiệm.
8) Lâm Tế Tam Cú: Ba câu yếu chỉ của Thiền sư Lâm Tế
Lâm Tế Tam Cú, cách thức diễn tả được khai triển bởi Thiền sư Lâm Tế Nghĩa Huyền, vị sáng lập ra tông Lâm Tế, như là một phương sách để giáo huấn đệ tử. Nó được căn cứ trên ngữ lục của Thiền sư Lâm Tế:
Tăng hỏi:
- Cái gì là đệ nhất cú?
Sư nói:
- Tam yếu ấn khai chu điểm trách, chưa cho nghĩ ngợi sự phân biệt chủ khách.
Tăng hỏi:
- Thế nào là đệ nhị cú?
Sư nói:
- Bài trừ câu hỏi vô vị, ngăn chặn cơ duyên bên ngoài.
Tăng hỏi:
- Thế nào là đệ tam cú?
Sư nói:
- Nhìn xem trên rạp diễn trò rối, giật dây sau màn. Làm sao lý hội đây?
Sư lại nói:
- Một cú thoại cần có đủ ba huyền môn, mỗi huyền môn cần có tam yếu, có tạm thời, có thật hẳn, có chiếu có dụng, các vị muốn lý hội thứ nào?
Những câu này trở nên nổi tiếng ở Trung Hoa và Nhật Bản. Truyền thống Lâm Tế về sau này dùng công thức này như một công án. Tuy nhiên, truyền thống không có sự hiểu biết thống nhất về ý nghĩa của ba câu này.
9) Lâm Tế Tam Huyền: Ba pháp giáo huấn huyền diệu của tông Lâm Tế.
Thứ nhất là thể trung huyền. Câu nói phải chất phác, ngay thật và không trau chuốt.
Thứ nhì là cú trung huyền. Lời nói không mắc kẹt nơi tình thức phân biệt.
Thứ ba là huyền trung huyền. Câu nói lìa đối đãi nhị nguyên
10) Lâm Tế: Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát: Sahasrabhujary-Avalokitesvara (skt)
Ma Cốc Bảo Triệt đến tham kiến Lâm Tế, sau khi trải tọa cụ ra hỏi:
- Mười hai mặt tượng Quan Âm, mặt nào là mặt thật?
Sư nhảy khỏi giường dây, một tay chộp lấy tọa cụ của Ma Cốc, một tay chụp lấy Ma Cốc nói:
- Quan Âm mười hai mặt đã đi về đâu rồi?
Ma Cốc chuyển mình định đến ngồi trên giường dây, sư liền dùng gậy đánh ông ta. Ma Cốc chụp lấy gậy, rồi đó hai người giằng co đi vào phương trượng.
12) Lâm Tế Thiền Chẩm
Trong thiền, tấm ván, cái gối hay bất cứ vật gì trong thiền đường đều đóng vai trò quan trọng. Tấm ván và cái gối xuất hiện trong một số công án như thí dụ số 20 trong Bích Nham Lục, trong đó chúng ta thấy sự xuất hiện của các thiền sư Thúy Vi, Lâm Tế và Long Nha.
Long Nha hỏi:
- Thế nào là chỉ ý của Tổ sư từ Tây lại?
Sư nói:
- Đem cây Thiền bản đến đây cho ta !
Long Nha bèn lấy cây Thiền bản đưa cho sư. Sư đón lấy liền đánh.
Long Nha nói:
- Đánh thì mặc Hòa thượng đánh, nhưng mà đúng là chẳng có chỉ ý của Tổ sư.
Về sau, khi Long Nha là trụ trì có ông tăng vào phương trượng thỉnh giáo:
- Khi xưa Hòa thượng đi hành cước hỏi hai vị Thiền sư, Hòa thượng có đồng ý với các ngài không?
Long Nha đáp:
- Tuy là hoàn toàn đồng ý, nhưng đúng là không có chỉ ý của Tổ sư.
13) Lâm Tế: Xúc Tỷ Dương
Con dê không phân biệt đồ vật được bằng mắt, mà phải đợi đến khi vật chạm vào mũi thì nó mới ăn. Nhà Thiền dùng từ nầy để chỉ cho người tu đạo mà mê muội, tu tập một cách mù quáng chứ chẳng biết chi đến chánh pháp. Theo Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, quyển XII, một hôm, Thiền sư Lâm Tế thượng đường dạy chúng:
- Các thiền sinh thời bây giờ hoàn toàn mù tịt về chân lý. Họ giống như những chú dê già nua, vơ hết cả những gì mà họ vấp phải dưới chân họ (xúc tỷ dương). Họ không phân biệt được giữa tớ và chủ, hay giữa khách và chủ. Những người như vầy đi vào Thiền với tâm thức lệch lạc, và hoàn toàn không có khả năng tu tập một cách hiệu quả khi đi vào những hoàn cảnh năng động. Người ta có thể kêu họ là những người được sơ tâm điểm đạo, nhưng thật sự họ chỉ là những kẻ thế tục tầm thường. Những người thật sự buông bỏ phải làm chủ được khả năng nhận thức đúng đắn, để phân biệt được người giác ngộ và kẻ bị ma ám, cái thật và cái giả, nhà hiền triết và kẻ suy đồi. Nếu mấy ông có được những biện biệt rõ ràng như thế, người ta có thể nói là mấy ông đã thật sự rời bỏ những lệ thuộc. Bây giờ mấy ông có thể thấy được tà ma ám chướng đối với Phật giáo đang lẫn lộn với sự việc chân thật. Những người sáng suốt đã từ bỏ hẵn ma chướng cùng lúc với Phật giáo. Nếu tôn sùng cái thiêng liêng và khinh khi cái phàm tục, mấy ông vẫn còn là những cái bọt bong bóng trong đại dương mê hoặc.
---o0o---
Lâm Tế Thiền Pháp
1) Tông Lâm Tế Và Tham Công Án
Tham công án thường ngụ ý là cố giải quyết một vấn đề Thiền như "Ý Tổ Đạt Ma từ Tây Trúc qua là thế nào?"; hay "Cây trắc bá ngoài sân!"; hay "Tất cả các pháp qui về một, cái một ấy qui về đâu?"; hay chỉ một chữ "Vô", vân vân. Nhiều công án, đối tượng của những cuộc vấn đáp giữa thầy và trò, vạch lại những sự biến của lần 'độc tham' trong quá khứ. Theo truyền thống thiền, việc dùng lối giảng riêng cho từng người có từ những bài học bí truyền của chính đức Phật Thích Ca Mâu Ni; cách nầy hiện vẫn còn được giữ trong các phái Thiền, cách làm nầy đã biến mất trong phái Tào Động, nhưng vẫn còn trong phái Lâm Tế. Ở Trung Hoa môn đồ Thiền ít khi dùng chữ "Tham Công Án"; thay vào đó, họ dùng chữ "Tham Thoại Đầu", có nghĩa là theo đuổi một thoại đầu. Hành giả tu Thiền nên luôn nhớ rằng các công án là cách diễn đạt trực tiếp sự thể nghiệm của các thiền sư ngày xưa, một sự thể nghiệm không thể nhận ra, không thể hiểu được theo lối duy lý. Bản chất của công án là dựa vào nghịch lý, nghĩa là dựa vào những gì vượt ra ngoài khái niệm (hay ở bên kia cái có thể nhận ra được). Vì vậy, các văn bản công án thuộc về những văn bản khó dịch nhất trong toàn bộ văn học thế giới. Ngay cả những ai đã đạt được mức độ thông thạo nào đó về Hoa ngữ hay Nhật ngữ vẫn chưa thể cung cấp một bản dịch thích hợp của các công án, nghĩa là một bản văn có thể được dùng trong việc tu tập thiền nếu mình không có sự thể nghiệm thiền sâu sắc. Trong nhà Thiền công án là một định thức, bằng ngôn ngữ đánh lừa, chỉ thẳng chân lý tối hậu. Công án không thể được giải đáp bằng cách sử dụng lý luận hợp lý, mà chỉ bằng cách làm tâm giác ngộ đến một mức sâu hơn, cũng như vượt qua lý trí biện biệt. Người tham công án hay người đọc các văn bản về công án về những công án đánh lạc hướng đừng bao giờ quên rằng những văn bản này, theo định nghĩa của chúng, là khó hiểu, không thể dùng trí tuệ phàm tục để hiểu được. Mục đích của chúng là kích thích hành giả vượt qua những giới hạn của lý luận và tư duy duy lý. Hành giả nên luôn nhớ rằng những lời giải về công án ngay cả những giải thích tự nó chiếu sáng, rõ ràng là sai lầm theo quan điểm Thiền nếu chúng được tìm ra bằng cách lập luận và diễn dịch mà bất cứ một bậc thầy chân chánh nào đều dễ dàng nhận ra. Về mặt tâm lý mà nói, tiến trình tham công án này rất nổi tiếng, và các thiền sư từ kinh nghiệm của họ thường đưa ra các lời khuyên với mục đích tạo ra cái gì đó gọi là tâm thức thiền. Thiền sư Bát Nhã nhắn nhủ các môn đồ của ông như sau: "Khi tâm ông đã trụ vững chắc và mãnh liệt không gián đoạn vào công án, ông sẽ bắt đầu không chú ý tới sự hiện hữu thân xác của mình, trong khi công án chiếm trung tâm của ý thức ông. Tuy nhiên, ở mức độ này ông phải cẩn thận , không được chạy theo vô thức, bởi vì đôi khi ông có xu hướng đi lạc như trong mơ và tạo ra một trạng thái điên loạn. Đừng bao giờ buông bỏ công án, hãy để công án luôn luôn hiện diện trong tâm thức của ông. Rồi sẽ có lúc tất cả mọi thứ cùng với công án sẽ biến mất khỏi tâm ông kể cả chính tâm ông. Vào khoảnh khắc ấy, giống như hạt đậu nảy ra tử tro lạnh, rồi ông sẽ hiểu tại sao Trương Tam uống mà Lý Tứ lại say". Theo Thiền Sư D.T. Suzuki trong quyển "Sự Huấn Luyện của Một Thiền Tăng", các phép tu tập công án mà ngày nay là phương pháp chính yếu để hiểu Thiền đòi hỏi nhiều năm ứng dụng cặn kẽ. Dĩ nhiên là không có nhiều người trở thành thiền sư sau nhiều năm tháng tu tập tại thiền viện, và đây chính là bản chất của Thiền; bởi vì Thiền là để dành cho hạng người lỗi lạc, tức là cho những người có thiên tư thông tuệ, chứ không phải cho quần chúng. Đây là quan niệm đã có từ xưa, nhưng laị đặc biệt đúng cho thời hiện đại này khi khái niệm dân chủ là tinh thần thống trị trong tất cả lãnh vực của đời sống con người. Sự tiêu chuẩn hóa diễn ra khắp mọi nơi có nghĩa là san bằng hay nâng lên cho bằng các bất bình đẳng và các "phân chi giai cấp". Nếu một hình thức quí tộc nào đó không chấp nhận và khuyến khích đến một mức độ nhất định, thì các xung lực nghệ thuật bị dồn nén và không một trí tuệ tôn giáo nào phát sinh được cả. Các định chế như thiền đường đang trở thành nghịch thời và lỗi thời; truyền thống của nó bị mai một, và cái tinh thần điều khiển giới luật của Tăng chúng hàng mấy trăm năm nay đã không còn chống đỡ được với sự công kích của tinh thần hiện đại nữa. Dĩ nhiên, vẫn còn các Tăng sĩ và thiền sư trong các thiền viện khắp Nhật Bản, thế nhưng có mấy ai trong số họ có thể đáp ứng một cách hữu hiệu cho các nhu yếu tâm linh của tuổi trẻ hiện đại và thích nghi bản thân với cái khung cảnh không ngớt thay đổi được tạo ra bởi khoa học và máy móc? Khi các bình chứa bị vỡ, những gì bên trong sẽ bị đổ ra. Bằng cách nào đó chân lý thiền cần phải được trì giữ trong cái phẳng lặng tầm thường và cảm tính nông cạn của đời sống hiện nay. Hành giả tu thiền nên luôn nhớ rằng những bản văn về công án là những thứ bổ trợ cho sự đào tạo thiền và đừng bao giờ xem chúng như khuôn vàng thước ngọc mà hành giả tu thiền phải tuân theo. Hành giả tu thiền từ một công án tuyệt nhiên không tìm cách để biết xem một thiền sư nào đó đã sống như thế nào trong quá khứ, hay có thể nói ra những lời gì; điều mà hành giả quan tâm là chính bản thân mình hiểu và thực hiện chân lý sống trong công án ngay ở đây và bây giờ. Hành giả tu thiền cũng nên nhớ rằng nhiều công án chỉ hiện lên những giai thoại nông cạn và vui đùa từ sự hài hước sâu sắc của các thiền sư ngày xưa. Tuy nhiên, nói gì thì nói, chúng ta phải đồng ý rằng những công án nầy có công năng giúp các thiền sư ngày xưa đạt được đại giác.
2) Lâm Tế: Tín Tâm Vi Bổn: Lấy sự tín tâm làm căn bản
Một hôm, thiền sư Lâm Tế thượng đường dạy chúng:
- Này các đạo lưu, các đấng tiên đức xưa thảy đều có con đường nhiếp dẫn mọi người; riêng lối chỉ dạy của sơn Tăng đây, chỉ cốt giúp mọi người không bị mê hoặc. Nếu mấy ông muốn dùng, thì cứ dùng, chứ đừng chần chờ thắc mắc. Ngày nay kẻ học vì bất ổn nào mà không thể chứng đắc? Bất ổn chính ở chỗ họ không có đủ Tín Tâm. Một khi mấy ông không có đủ tín tâm, tức thì bị những cảnh ngộ chung quanh dày xéo. Khi bị ngoại cảnh sai sử và lôi kéo, mấy ông hết còn có tự do nào nữa. Nếu mấy ông không còn mãi miết theo ngoại cảnh, mấy ông sẽ được như các đấng tiên đức. Mấy có muốn biết các đấng tiên đức xưa như thế nào không? Họ chẳng khác gì những người đang đứng ngay trước mặt mấy ông nghe ta giảng pháp. Chỉ vì thiếu tín tâm mà mãi miết đuổi theo ngoại vật. Và những gì mà mấy ông bắt được bằng sự đeo đuổi ấy chỉ là cái xuất sắc của văn tự, xa với cuộc sống của các tiên đức xưa. Các đạo lưu! Theo chỗ thấy của sơn Tăng đây với đức Thích Ca không khác. Ngày nay, trăm đường ứng dụng còn thiếu chỗ nào đâu. Sáu nẻo thần quang, chưa từng gián đoạn, chưa từng trắc trở. Nếu thấy được như thế, quả thật là một kẻ vô sự. Mong các đạo lưu đừng nhầm lẫn chỗ này, hãy cẩn trọng!".
---o0o---
Lâm Tế Tứ Liệu Giản
1) Tổng Quan về Tứ Liệu Giản của Lâm Tế
Dưới bề mặt có vẻ phi lý của những công án Thiền, thiền sư Lâm Tế đã đặt ra một hệ thống hay phạm trù, nếu người đời sau tuân theo, có thể sẽ khiến Thiền dễ hiểu hơn phần nào. Kỳ thật có nhiều hệ thống khác nhau đã được các thiền sư đề ra để xếp loại những công án. Giữa những hệ thống đó, 'Tứ Liệu Giản' của thiền sư Lâm Tế có thể được xem như là hay nhất và rõ rệt nhất, và nhờ đó người ta có thể hiểu được nhiều công án bí hiểm.
2) Ý nghĩa của chữ 'Đoạt' và 'không đoạt' trong 'Tứ Liệu Giản' của thiền sư Lâm Tế
Trong 'Tứ Liệu Giản' từ 'đoạt nhân' có nghĩa là bác bỏ, khước từ, cự tuyệt, phản đối, hoặc tước đoạt cái người đến tham vấn các thiền sư; trong khi từ 'không đoạt cảnh' có nghĩa là không phản đối lời nói của người đến tham vấn. Từ 'cảnh' ở đây bao gồm quang cảnh, lãnh vực, phạm vi, đối tượng, sự hiểu biết, vân vân. Nói chung, 'đoạt nhân chẳng đoạt cảnh' có nghĩa là phản đối hay bác bỏ người hỏi nhưng không bác bỏ lời của người ấy. Ba liệu giản còn lại có thể được hiểu bằng cách loại suy tương tự
3) Chi tiết về Tứ Liệu Giản của Lâm Tế
Thiền sư Lâm Tế đã đề ra cho các đệ tử của mình khi Sư nói. Thứ nhất là Chủ Quan hay đoạt nhân chẳng đoạt cảnh. Thứ nhì là Khách Quan hay đoạt cảnh chẳng đoạt nhân. Thứ ba là cả Chủ Quan lẫn Khách Quan hay đoạt cả nhân lẫn cảnh. Thứ tư là chẳng Chủ Quan chẳng Khách Quan hay chẳng đoạt nhân chẳng đoạt cảnh
4) Sự giải thích chi tiết hơn về Tứ Liệu Giản của chính thiền sư Lâm Tế
Tứ liệu giản này là những phương pháp mà các thiền sư sử dụng để xử sự với đệ tử về bốn trình độ lý hội Thiền. Chúng ta thấy lời giải thích của chính thiền sư Lâm Tế trong 'Lâm Tế Ngữ Lục' của ngài.
Tham vấn buổi chiều, Sư dạy chúng:
- Có khi đoạt nhân chẳng đoạt cảnh. Có khi đoạt cảnh chẳng đoạt nhân. Có khi nhân cảnh đều đoạt. Có khi nhân cảnh đều chẳng đoạt.
Có một vị Tăng đến hỏi Sư:
- Thế nào là đoạt nhân chẳng đoạt cảnh?
Sư đáp:
- Ngày ấm nẩy sanh gấm trải đất, trẻ con rủ tóc trắng như tơ. (Hú nhật phát sanh phô địa cẩm, anh hài thùy phát bạch như ty).
- Thế nào đoạt cảnh chẳng đoạt nhân?
- Lệnh vua vừa xuống khắp thiên hạ, tướng quân biên ngoại khói mù tan. (Vương lệnh dĩ hành thiên hạ biến, tướng quân tắc ngoại tuyệt yên trần).
- Thế nào nhân cảnh đều đoạt?
- Bặt tin Tịnh Phần, riêng ở một chỗ. (Tịnh Phần tuyệt tín, độc xử nhất phương).
- Thế nào nhân cảnh đều chẳng đoạt?
- Vua lên điện báu, lão quê hát ca. (Vương đăng bảo điện, dã lão âu ca).
Sư lại bảo:
- Thời nay người học Phật pháp cần yếu có kiến giải chân chánh. Nếu được kiến giải chân chánh thì sanh tử chẳng nhiễm, đi đứng tự do chẳng cần cầu thù thắng mà thù thắng tự đến. Đạo lưu! (đồng đạo, chỉ chúng Tăng) các bậc tiên đức từ xưa đều có con đường đưa người, như Sơn tăng chỉ chỗ cho người. Cốt các ông đừng bị người gạt, cần dùng liền dùng, lại chớ ôm ngờ vực. Hiện nay học giả chẳng được, bệnh tại chỗ nào? Bệnh tại chỗ chẳng tin. Các ông nếu tự tin chẳng đến, là rộn ràng theo tất cả cảnh chuyển, bị muôn cảnh lôi, lại chẳng được tự do. Các ông nếu hay bặt được tâm luôn luôn chạy tìm, liền cùng Phật, Tổ chẳng khác. Các ông muốn biết được Phật, Tổ chăng? Chính trước mặt các ông hiện nghe pháp ấy vậy. Học nhân tin chẳng đến, liền chạy tìm ra ngoài. Dù có tìm được, cũng chỉ là tướng thù thắng của văn tự, trọn chẳng đặng ý của Phật Tổ sống. Chớ lầm!
---o0o---
Lâm Tế Nghĩa Huyền Và Tông Lâm Tế
Ngũ Gia Thiền chỉ giáo pháp riêng biệt được giảng dạy từ những truyền thống có liên hệ tới những vị Thiền sư đặc biệt. Ba trong số năm truyền thống này: Tào Động, Vân Môn, và Pháp Nhãn, đi xuống từ dòng truyền thừa được truy nguyên ngược về Thanh Nguyên Hành Tư và Thạch Đầu Hy Thiên. Hai truyền thống kia: Lâm tế và Quy Ngưỡng, được tiếp nối từ Mã Tổ Đạo Nhất và Bách Trượng Hoài Hải. Tông Lâm Tế về sau này lại sản sanh ra hai nhánh Dương Kỳ và Hoàng Long. Khi mà hai phái sau này được thêm vào Ngũ Gia thì người ta gọi đó là Thất Tông. Tông Lâm Tế là một trong những trường phái Thiền nổi tiếng của trung Quốc được Thiền sư Lâm Tế sáng lập. Lâm Tế là đại đệ tử của Hoàng Bá. Vào thời kỳ mà Phật giáo bị ngược đãi ở Trung Quốc khoảng từ năm 842 đến năm 845 thì thiền sư Lâm Tế sáng lập ra phái thiền Lâm Tế, mang tên ông. Trong những thế kỷ kế tiếp, tông Lâm Tế chẳng những nổi bậc về Thiền, mà còn là một tông phái thiết yếu cho Phật giáo Trung Hoa thời bấy giờ. Tông Lâm Tế mang đến cho Thiền tông một yếu tố mới: công án. Phái Thiền Lâm Tế nhấn mạnh đến tầm quan trọng của sự “Đốn Ngộ” và dùng những phương tiện bất bình thường như một tiếng hét, một cái tát, hay đánh mạnh vào thiền sinh cốt làm cho họ giựt mình tỉnh thức mà nhận ra chân tánh của mình. Lâm Tế tông được sáng lập và xiển dương bởi ngài Lâm Tế, pháp tử của Thiền sư Hoàng Bá Hy Vận. Tại Trung Hoa, tông này có 21 đời đệ tử truyền thừa, suy thoái dần từ thế kỷ thứ XII, nhưng trước đó đã được mang sang Nhật Bản và tiếp tục phát triển cho đến ngày nay dưới tên gọi là Rinzai.
|