Additional Info
Thiền Sư Ngưỡng Sơn Tuệ Tịch
Pháp tự đời thứ tư của Nam Nhạc Hoài Nhượng
Pháp tự của Quy Sơn Linh Hựu.
Thiền sư Ngưỡng Sơn Tuệ Tịch ở Viên Châu (nay là Nghi Xuân - Giang Tây) là người Hoài Bắc Thiều Châu (nay là Quảng Đông Thiều Quan), họ Diệp. Năm 15 tuổi, sư định xuất gia nhưng cha mẹ không cho.
Hai năm sau. sư chặt đứt hai ngón tay, quỳ trước mặt cha mẹ thề đắc chân đế của Phật pháp để báo đáp ơn dưỡng dục. Rồi sau đó, sư theo Thiền sư Thông ở chùa Nam Hoa xuống tóc, nhưng không thọ giới cụ túc, lên đường du phương.
Ban đầu, sư đến bái Thiền sư Đam Nguyên, ngộ được huyền chỉ.
Đam Nguyên bảo:
- Quốc sư lúc đương thời được sáu đời Tổ sư truyền cho chín mươi bảy viên tướng (tướng tròn), Ngài trao cho Lão tăng dặn rằng: “Sau khi ta tịch diệt ba mươi năm, có ông Sa-di từ phương nam đến, sẽ làm hưng thạnh giáo này, ngươi nên thứ lớp truyền trao chớ để đoạn dứt”. Nay ta trao cho con, con phải vâng giữ.
Nói xong, Đam Nguyên trao bản ấy qua cho Sư. Sư nhận được, xem qua một lượt, bèn đem đốt.
Hôm khác, Đam Nguyên hỏi Sư:
- Những tướng ta trao cho hôm trước cần phải quí trọng giữ kín.
Sư thưa:
- Hôm ấy xem xong, con đốt quách rồi.
Đam Nguyên bảo:
- Pháp môn này của ta không người hội được, chỉ có thầy ta và các bậc Tổ sư Đại thánh mới hiểu hết, sao con lại đốt đi?
Sư thưa:
- Con một phen xem qua đã biết ý chỉ trong đó, ứng dụng được chẳng cần cầm bản.
Đam Nguyên bảo:
- Tuy như thế, nơi con thì được, người sau làm sao tin đến được?
Sư thưa:
- Hòa thượng nếu cần, con chép lại chẳng khó.
Sư liền chép hết lại thành một tập chẳng sót một điều, trình lên. Đam Nguyên khen là đúng.
Sư giặt y, Đam Nguyên hỏi:
- Chính bây giờ làm gì?
Sư đáp:
- Chính bây giờ nhằm chỗ nào thấy?
*
Về sau, sư đến tham vấn Thiền sư Qui Sơn Linh Hựu và thành đệ tử ruột được lên pháp đường trong thất.
Thiền sư Linh Hựu hỏi sư:
- Ông là sa-di có chủ hay là sa-di không có chủ?
Sư đáp:
- Là sa-di có chủ.
Linh Hựu hỏi:
- Chủ ông ở đâu?
Sư đi từ Tây qua Đông rồi đứng sững. Do đó, Linh Hựu biết sư không phải thuộc loại tầm thường, bèn quyết định trao cho sư giáo pháp.
*
Sư hỏi:
- Làm thế nào để nắm được Thiền ngộ chân chánh (chỗ trụ của chân Phật) ?
Linh Hựu nói:
- Thiền ngộ chân chánh không kiến lập tại cơ sở thương lượng hay không thượng lượng mà căn bản vượt khỏi tư lượng và không tư lượng, nhiệm vận tự tại, biểu hiện sanh cơ vô cùng của Phật tánh tự tâm. Thiền giả chân chánh lấp bỏ tư lượng hay không tư lượng mà nắm vững sinh mệnh thực tại hoạt bát. Mặt khác, trong sinh hoạt hiện thực quảng tế chúng sanh, mà không làm mất đi tuệ cảnh đã khai ngộ. Mặt khác nữa, không trước cảnh giới khai ngộ mà sống qua tâm bình thường, chỉ có như thế mới gọi là nắm bắt được cảnh giới như như của chân Phật.
Tuệ Tịch vừa nghe qua là đốn ngộ. Từ đó, giữ lễ độ từ mà phụng sự Thiền sư Linh Hựu. Sau đó không lâu, sư đến Giang Lăng (nay là Hồ Bắc) thọ giới cụ túc, tại nơi này trải qua một mùa kiết hạ an cư, đồng thời nghiên cứu Luật tạng.
Về sau, sư tham yết Nham Đầu. Nham Đầu dựng cây xơ quất lên, sư trải tọa cụ ra. Nham Đầu đưa cây xơ quất ra sau lưng, sư liền cuốn tọa cụ lại để lên vai mà đi ra. Nham Đầu nói:
- Ta không ấn khả việc ông buông ra mà chỉ ấn khả việc ông thu vào.
*
Sư lại đến tham vấn Thiền sư Thạch Thất, hỏi:
- Phật vói đạo khác nhau bao nhiêu ?
Thạch Thất nói:
- Đạo như mở xòe bàn tay, Phật như nắm lại thành nắm tay.
Sư bèn vái chào Thạch Thất từ giã ra đi. Thạch Thất đưa ra tới cổng chùa, nói:
- Ông đừng có đi mà không trở lại, sau này xin hãy về bên ta !
*
Vi Trụ tham kiến Qui Sơn, định xin Qui Sơn một bài pháp kệ.
Qui Sơn nói:
- Phật tại trước mặt ông, ông còn là kẻ độn căn. Huống hồ lại còn hình thành nơi giấy bút thì cách Phật biết là bao xa ?
Vi Trụ lại đến nhờ Ngưỡng Sơn, sư viết trên giấy cho Vi Trụ một hình tròn, rồi chú ở dưới rằng: “Tư lượng mà biết là rơi hạng thứ hai, không tư lượng mà biết là rơi xuống hạng thứ ba .
*
Ngày kia, Ngưỡng Sơn cùng Qui Sơn đi khai điền. Sư hỏi Qui Sơn:
- Tại sao ruộng đầu này quá cao, còn đầu kia lại quá thấp?
Qui Sơn nói:
- Nước có thể làm bằng phẳng mọi vật, vì tánh của nước là bằng phẳng.
Sư nói:
- Nước không dựa vào gì thì không thể nói là bằng phẳng, cho nên có thể nói nước ở chỗ cao là bằng phẳng cao, nước ở chỗ thấp là bằng phẳng thấp.
Linh Hựu đồng ý.
*
Có thí chủ đem lụa đến cúng dường Qui Sơn, sư hỏi:
- Hòa thượng nhận vật phẩm cúng dường của thí chủ, lấy cái gì mà báo đáp lại ?
Qui Sơn gõ giường Thiền ngầm khải thị sư, sư nói:
- Hòa thượng sao có thể đem phẩm vật của nhiều người biến thành thứ hưởng riêng của một cá nhân ?
Qui Sơn bỗng nhiên hỏi sư:
- Từ đâu tới ?
Sư đáp:
- Từ trong ruộng đến.
Qui Sơn hỏi:
- Trong ruộng có người nhiều ít ?
Sư chẳng đáp lại, chỉ chống cây cào mà đứng. Qui Sơn nói:
- Hôm nay nhìn lại không ít người cắt tranh ở Nam Sơn.
Sư cầm cào lên mà đi khỏi.
*
Lúc sư ở trong hội Qui Sơn chăn bò, đệ nhất tọa đến chỗ sư nói:
- Trăm ức đầu cỏ (phàm phu) biến thành trăm ức sư tử (Thánh). Sư cũng chẳng trả lời, quay về lễ đường đứng hầu. Lúc đó, đệ nhất tọa đến tham vấn Qui Sơn. Sư hỏi ông ta:
- Mới vừa rồi ông hỏi tôi ‘Trăm ức đầu cỏ biến hiện thành trăm ức sư tử’ phải không ?
Đệ nhất tọa đáp:
- Đúng vậy.
Sư hỏi:
- Chính lúc đương biến hiện là ở trước đầu cỏ hay ở sau đầu cỏ ?
Đệ nhất tọa đáp:
- Lúc biến hiện không có trước sau.
Sư bèn đi ra, Qui Sơn nói:
- Sư tử (chỉ Ngường Sơn) gãy lưng rồi !
*
Lại có lần đệ nhất tọa đưa cây xơ quất lên nói:
- Nếu có ai nói được điều đạo lý thì ta sẽ cho cây xơ quất này.
Sư nói:
- Nếu tôi nói được điều đạo lý, ông có cho tôi cây xơ quất không ?
Đệ nhất tọa nói:
- Chỉ cần nói ra được điều đạo lý là được cây xơ quất.
Sư liền giựt cây xơ quất đi tuốt.
*
Có một hôm trời đang mưa, đệ nhất tọa nói:
- Tịch xà-lê, mưa tốt quá !
Sư hỏi:
- Tốt ở chỗ nào ?
Đệ nhất tọa không nói được tốt ở chỗ nào, sư nói:
- Tôi có thể nói mưa tốt ở chỗ nào đấy !
Đệ nhất tọa hỏi:
- Tốt ở chỗ nào ?
Sư chỉ dùng ngón tay chỉ mưa.
*
Hôm nọ, Qui Sơn cùng sư đi dạo núi, bỗng nhiên có con quạ tha trái hồng thị làm rơi trước mặt hai người. Qui Sơn lượm trái hồng thị đưa cho sư, sư nhận lấy rửa nước sạch sẽ, rồi trao lại Qui Sơn. Qui Sơn hỏi:
- Ông được trái hồng thị này nơi đâu ?
Sư nói:
- Đây là kết quả đạo đức cảm hóa của Hòa thượng.
Qui Sơn nói:
- Ông cũng không thể chẳng có phần.
Nói đoạn bẻ đôi trái hồng thị đưa cho sư một nửa.
*
Sư nằm mộng thấy vào nội viện của đức Di-lặc, trong nhà Tăng các tòa đều có người ngồi, chỉ có tòa thứ hai trống, Sư liền lên tòa ngồi. Có vị Tôn giả bạch chùy (khai kiểng) rằng: “Hôm nay tòa thứ hai nói pháp”.
Sư đứng dậy bạch chùy rằng:
- Pháp Đại thừa ly tứ cú, tuyệt bách phi, lắng nghe! lắng nghe! chúng giải tán đi.
Sư thức giấc đem việc ấy thuật lại Qui Sơn. Qui Sơn bảo:
- Con đã vào vị thánh.
Sư lễ tạ.
*
Sư lẩn quẩn Qui Sơn trước sau cỡ 15 năm. Phàm có Thiền nhân nào chấp trước nơi ngữ cú, ngôn giáo, đều bị sư chiết phục. Cho đến khi Qui Sơn mật truyền tâm ấn, sư bèn dẫn chúng đến núi Vương Mãn dựng đạo tràng, nhân cơ duyên giáo hóa chưa khế hợp nên lại quay về Ngưỡng Sơn. Từ đó đồ chúng đông dần. Thiền hội thạnh dần.
Tăng hỏi:
- Thế nào là chỉ ý của Tổ sư ?
Sư chỉ tay trong khoảng không vạch một vòng tròn, trong vòng tròn đó viết một chữ ‘Phật’. Ông tăng không lời đối đáp, sư nói với đệ nhất tọa:
- Không nghĩ điều thiện, không nghĩ điều ác. Ngay lúc đó thì thế nào ?
Đệ nhất tọa nói:
- Trong lúc đó là nơi mỗ an ổn buông thả thân tâm tính mạng.
Sư nói:
- Sao không hỏi lão tăng ta ?
Đệ nhất tọa nói:
- Trong lúc đó không thấy Hòa thượng.
Sư nói:
- Ông không thể làm cho Thiền giáo của ta phát dương sáng rộng được !
*
Có lần sư trở về Qui Sơn thăm sư phụ Linh Hựu, Linh Hựu hỏi:
- Ông hiện nay có thể gọi là bậc thiện tri thức hàng trên, nhưng ông có thể nói cho ta biết hay không, ông biện biệt cách nào đạo hạnh của người tham Thiền học đạo các nơi, bọn họ là ngộ thật hay ngộ giả, có sư thừa hay không sư thừa, luôn cả việc thuộc nghĩa học hay huyền học ?
Sư nói:
- Tuệ Tịch con có biện pháp nghiệm chứng, tỉ như thấy tăng các nơi đến tham Thiền, con liền dựng cây xơ quất lên hỏi họ ‘Này chư vị đại đức các nơi, nói hay không nói cái này đây ?’. Hoặc giả không phải kiểu đó, như con hỏi: ‘Lão túc các nơi tuyên dương ý chỉ gì ?’
Linh Hựu khen rằng:
- Các cái đó là nanh vuốt của Tông môn xưa.
Linh Hựu lại hỏi:
- Bời bời chúng sanh, nghiệp thức đầy dẫy, không có căn bổn mà dò thì ông làm sao biết có bổn hay không bổn ?
Sư nói:
- Tuệ Tịch con tự có phương pháp.
Lúc đó có một ông tăng đi ngang qua mặt Ngưỡng Sơn, sư liền gọi một tiếng ‘Xà-lê’. Ông tăng nọ ngoái dầu lại, sư liền nói với Linh Hựu:
- Đó là nghiệp thức bời bời, không có gốc mà căn cứ.
Linh Hựu nói:
- Đó là ông lấy một giọt sữa sư tử đem pha với sáu hộc sữa lừa.
*
Tướng công Trịnh Ngưu hỏi sư:
- Không đoạn phiền não mà vào Niết-bàn là như thế nào?
Sư dựng cây xơ quất lên, tướng công nói:
- Chữ “Vào” không cần mà được.
Sư nói:
- Chữ ‘Vào’ ấy không phải nói với tướng công.
*
Sư hỏi tăng:
- Từ đâu đến ?
Ông tăng ấy nói:
- Từ U Châu đến.
Sư nói:
- Ta chính đang muốn hỏi ông gạo ở U Châu giá thế nào?
Ông tăng nói:
- Lúc con đến đây không có chuyện gì lại đi qua chợ, vô ý đạp gãy cây cầu.
Sư không còn nói gì thêm nữa. (Sư tiện hưu, có thể dịch “Sư liền thôi”).
*
Sư thấy tăng đến, cất cây xơ quất đang cầm trong tay lên. Ông tăng nọ bèn hét lên một tiếng, sư nói:
- Hét không phải là không thể được, nhưng hãy nói lão tăng không thỏa đáng chỗ nào ?
Ông tăng nói:
- Hòa thượng không nên đem cảnh tướng mà chỉ dạy người.
Sư liền đánh.
*
Có vị Tăng người Ấn từ hư không đến, Sư hỏi:
- Vừa rồi ở đâu đến?
Tăng thưa:
- Ở Tây thiên.
Sư hỏi:
- Rời Tây thiên lúc nào?
Tăng thưa:
- Sớm mai.
Sư bảo:
- Sao mà chậm lắm vậy?
Tăng thưa:
- Vì còn dạo núi xem nước.
Sư bảo:
- Thần thông du hí thì chẳng không, Phật pháp của Xà-lê cần trao lại cho Lão tăng mới được?.
Tăng thưa:
- Định sang Đông độ lễ Văn-thù, lại gặp Tiểu Thích-ca”, bèn đem sách chữ Phạn bằng lá bối trao cho Sư, làm lễ rồi nương hư không mà đi.
Từ đây Sư có hiệu là Tiểu Thích-ca.
*
Qui Sơn lấy một tấm gương soi gói cẩn thận gởi Ngưỡng Sơn, sư thượng đường đưa tấm gương lên nói:
- Hãy nói xem đây là kính của Qui Sơn hay là kính của Ngưỡng Sơn ? Nếu có người nói được ta sẽ không đập bể gương.
Tăng chúng đều không nói được, sư bèn đập bể gương.
*
Sư hỏi Song Phong.
- Sư đệ gần đây có cao kiến gì ?
Song Phong đáp:
- Theo cái thấy của đệ thì trong đại thiên thế giới không một pháp nào tồn tại.
Sư nói:
- Kiến giải của sư đệ còn chấp nơi cảnh tướng.
Song Phong nói:
- Đệ chỉ có thể như thế, chẳng hay sư huynh thì thế nào ?
Sư nói:
- Sư đệ há không biết cái người biết đại thiên thế giới không còn một pháp nào ru ?
Qui Sơn sau đó nghe được nói:
- Lời nói của Tịch tử nghĩ giết cả người trong thiên hạ.
*
Có ông tăng hỏi:
- Pháp thân biết hay không biết thuyết pháp ?
Sư nói:
- Ta không thể nói Pháp thân biết hay không, nhưng có một người có thể nói.
Tăng hỏi:
- Người biết đó hiện ở đâu ?
Sư đẩy ra một cái gối. Sau đó, Qui Sơn nghe được nói:
- Thiền cơ của Tịch tử bén nhọn như đao kiếm.
*
Sư nhắm mắt ngồi, có ông tăng rón rén bước đến bên sư đứng hầu.
Sư bổng mở trợn mắt, sau đó vẽ một vòng tròn trên đất, bên trong vòng tròn viết một chữ ‘Nước’ quày đầu nhìn ông lăng. Ông tăng không nói được lời.
*
Sư quảy một cây Thiền trượng, tăng hỏi:
- Được cây gậy ở đâu vậy ?
Sư cầm Thiền trượng giấu phía sau lưng. Ông tăng nghẹn lời.
*
Sư hỏi ông tăng:
- Ông biết điều gì ?
Ông tăng đáp:
- Biết bói quẻ.
Sư đưa cây xơ quất lên nói:
- Đây là quẻ gì trong 64 quẻ ?
Ông tăng đớ lưỡi. Sư tự nói:
- Mới hồi nãy là quẻ ‘Lôi thiên đại tráng’, bây giờ đã biến thành quẻ ‘Địa hỏa minh di’.
*
Ông tăng hỏi:
- Người xưa nói: ‘Thấy sắc là thấy tâm’, giường Thiền là sắc, thỉnh Hòa thượng ly sắc chỉ ra tâm của con.
Sư nói :
- Cái gì là giường Thiền, hãy chỉ ra xem ?
Ông tăng không lời đối đáp.
*
Sư cùng một ông tăng đang trò chuyện, bên cạnh có ông tăng nói:
- Nói năng là Văn Thù, im lặng là Duy Ma.
Sư nói:
- Không nói năng mà cũng không im lăng, há có phải là ông đó chăng ?
Ông tăng ấy tịt ngòi. Sư nói:
- Vì sao không hiển lộ thần thông ?
Ông tăng ấy nói:
- Không phải con không chịu hiển lộ thần thông, chỉ sợ bị Hòa thượng thu nhập vào giáo.
Sư nói:
- Xét nơi ông đến, dám chắc là không có con mắt ngoài giáo điển.
Hỏi:
- Thiên đường và địa ngục cách nhau bao xa ?
Sư dùng gậy vạch dưới đất một gạch.
*
Lúc sư trụ ở núi Quan Âm có đưa ra một thông cáo: ‘Trong lúc ta xem kinh, không được hỏi chuyện’. Sau đó, có ông tăng định hỏi chuyện gặp ngay lúc sư đang xem kinh, bèn đứng hầu một bên đợi sư xem xong.
Sư cuộn quyển kinh lại, hỏi ông tăng:
- Lãnh hội không ?
Ông tăng đáp:
- Con không xem kinh làm sao lãnh hội được ?
Sư nói:
- Ngày sau ông lãnh hội.
*
Tăng hỏi:
- Tiêu bản đốn ngộ của Thiền tông, rốt lại làm thế nào để nhập môn?
Sư nói:
- Về điểm này, rất khó mà giảng rõ cho ông hiểu. Đối với người có đầy đủ căn tánh thượng đẳng, trí tuệ thượng hạng mà nói thì chỉ cần một lời là đã triệt ngộ, được đại giải thoát. Còn đối với loại căn tánh u tối, trí tuệ nhỏ nhoi, bậc đại đức Thiền tông xưa đã nói: ‘Nếu chẳng an tâm tọa Thiền, thanh tịnh tư lự, thì đến lúc đó chỉ là một mảng mù mờ’.
Ông tăng ấy nói:
- Ngoài điều đó ra còn có pháp môn phương tiện nào dạy kẻ học trò này ngộ nhập Thiền lý chăng ?
Sư nói:
- Ngoài điều đó ra còn có hay không có, chỉ tổ làm cho tâm thêm bất an. Ông là người ở đâu ?
Ông tăng đáp:
- Là người U châu.
Sư hỏi:
- Ông còn tưởng nhớ U Châu không ?
Ông tăng đáp:
- Lúc nào cũng tưởng nhớ.
Sư hỏi:
- Nơi đó đình đài, lầu gác, rừng vườn, hành lang vẽ hình cho đến người cười, ngựa hí, tất cả mọi cảnh tượng náo nhiệt, ông hôm nay có còn tưởng tượng mà thấy ra chăng ?
Ông tăng nói:
- Sau khi con đến đây thì mọi cái nơi đó đều không còn tồn tại.
Sư nói :
- Ngộ giải của ông còn vướng kẹt nơi cảnh. Ông không có Phật tánh, tự tâm của người tỉnh ngộ.
Ông tăng lễ tạ lui ra.
*
Tuệ Tịch đang chăn bò ở sườn phía trước núi Qui, thấy một ông tăng lên núi, sau đó không lâu lại xuống núi, sư nói:
- Sao thượng tọa không ở lại núi ít lâu ?
Ông tăng nói:
- Chỉ nhân vì không khế hiệp cơ duyên !
Sư nói:
- Có cơ duyên gì thử nói ra xem !
Tăng nói:
- Hòa thượng hỏi tôi tên gì, tôi nói tên Qui Chân. Hòa thượng hỏi qui chân là qui về đâu, tôi không có lời đối đáp.
Sư nói:
- Thượng tọa hãy trở lên núi nói với Hòa thượng là con đã hồi đáp được rồi. Như Hòa thượng hỏi hồi đáp thế nào thì nói: ‘Trong mắt, trong tai, trong mũi’.
Ông tăng bèn trở lên núi đem lời sư chỉ dạy mà nói lại với Hòa thượng. Qui Sơn nói:
- Kẻ gian xảo kia ! Đây là lời nói của bậc cao tăng giáo hóa 500 người !
*
Qui Sơn đang cùng sư chăn bò. Qui sơn hỏi:
- Trong đó có còn Bồ-tát chăng?
Sư đáp:
- Còn.
Qui Sơn nói:
- Ông thấy cái nào là phải thử chỉ xem !
Sư đáp:
- Hòa thượng nghi cái nào không phải thử chỉ ra xem !
Qui Sơn liền thôi nói.
*
Thiền sư Nam Tháp Quang Dũng chu du miền Bắc, tham kiến thiền sư Lâm Tế Nghĩa Huyền, sau đó trở về thị phụng Tuệ Tịch. Sư hỏi:
- Ông đến đây làm gì ?
Nam Tháp đáp:
- Tham kiến Hòa thượng.
Sư hỏi:
- Có thể thấy Hòa thượng không ?
Đáp:
- Thấy rồi.
Sư hỏi:
- Hòa thượng ta giống hay không giống con lừa ?
Đáp:
- Con thấy Hòa thượng lại cũng chẳng giống Phật.
Sư Hỏi:
- Nếu không giống Phật thì giống cái gì ?
Nam Tháp đáp:
- Như có giống cái gì thì cùng lừa đâu có chi sai biệt ?!
Sư kinh ngạc quá đỗi nói:
- Phàm và Thánh tiêu diệt hết, vọng tình trừ tận, thật thể hiển lộ. Ta dùng câu hỏi này khám nghiệm người đã 20 năm chưa có một ai biện minh rốt ráo. Ông khá bảo trì, củng cố nhé.
Sư thường nói với người khác:
- Đây là Phật thân phàm.
*
Quan thị ngự họ Lưu hỏi:
- Chỉ ý khiến tâm minh liễu, có được nghe không nào ?
Sư nói:
- Nếu muốn cho tâm minh liễu thì thật ra chẳng có tâm nào để mà minh liễu. Cái tâm chẳng cần minh liễu mới là sự minh liễu chân chánh.
*
Sư hỏi ông tăng:
- Gần đây nhất rời xa nơi nào ?
Tăng đáp:
- Phương Nam.
Sư đưa gậy lên nói:
- Các lão Hòa thượng nơi đó có nói cái này không ?
Tăng đáp:
- Không nói.
Sư nói:
- Nếu đã không nói cái này, tức nói cái kia chăng ?
Tăng đáp:
- Không nói.
Sư gọi:
- Đại đức !
Tăng ứng tiếng dạ. sư nói:
- Hãy đến tăng đường tham kiến đi !Ông tăng liền đi ra. Sư lại gọi:
- Đại đức !
Ông tăng quay đầu lại. Sư nói:
- Bước lại đây !
Ông tăng bước lại. Sư dùng gậy gõ lên đầu ông tăng nói:
- Đi đi!
Vân Môn Văn Yển nói:
- Ngưỡng Sơn nếu không có câu nói sau thì làm thế nào mà biện thức người.
*
Lưu ngự giá vào núi, sư ra cửa nghinh tiếp. Ngự giá vừa đi tới cổng liền hỏi:
- Ba cửa đều mở, từ cửa nào mà vào ?
Sư đáp:
- Từ cửa tin vào.
Lưu đến pháp đường lại hỏi:
- Chẳng vào cảnh giới mà nhập Phật cảnh giới thì thế nào ?
Sư gặt ngược cây xơ quất điểm ba điểm. Lưu lễ bái, sư lại hỏi:
- Nghe nói ngự giá xem kinh mà ngộ phải không ?
Lưu nói:
- Đệ tử xem kinh Niết Bàn tới câu: ‘Chẳng đoạn trừ phiền não mà vào Niết-bàn’ được phần an lạc.
Sư dựng đứng cây xơ quất nói:
- Chỉ như cái này làm sao vào ?
Lưu nói:
- Một chữ ‘vào’ cũng chẳng được.
Sư nói:
- Một chữ ‘vào’ chẳng vì ngự giá.
Lưu ngự giá dứng dậy ra di.
Thiền sư Ngưỡng Sơn Tuệ Tịch trước trụ Ngưỡng Sơn, sau trụ Quan Âm sơn (nay là Việt Tú sơn tỉnh Quảng Đông), cách sư tiếp dẫn người học, lợi tế chúng sanh, Thiền tông đời sau coi đó là tiêu chuẩn.
Trước khi thiên hóa mấy năm, sư có kệ rằng:
Niên mãn thất thập thất
Lão khứ thị kim nhật
Nhiệm tính tự phù trầm
Lưỡng thủ phan khuất tất.
Tạm dịch:
Tuổi tròn bảy mươi bảy
Tới ngày ra đi rồi
Mặc tính chìm hay nổi
Hai tay chống gối thôi.
Khi Sư sắp tịch ở tại núi Đông Bình, có vài vị Tăng đứng hầu, Sư nói kệ:
Nhất nhị nhị tam tử
Bình mục phục ngưỡng thị
Lưỡng khẩu nhất vô thiệt
Thư thị ngô tông chỉ.
(Một hai hai ba con
Mắt thường lại ngước xem
Hai miệng một không lưỡi
Đây là tông chỉ ta.)
Sau tại Đông Bình Thiều Châu nhập diệt đúng 77 tuổi, hai tay ôm gối mà qua đời. Sắc thụy là Trí Thông Đại sư, tháp tên Diệu Quang. Đời sau có người dời tháp về Ngưỡng Sơn.
Những “vấn đáp” giữa Ngưỡng Sơn và Qui Sơn, cũng như những thiền sư khác, về tinh thần Thiền được thu thập lại trong Viễn Châu Ngưỡng Sơn Huệ Tịch Thiền Sư Ngữ Lục (sưu tập những lời của thiền sư Ngưỡng Sơn ở Viễn Châu). Tên của Sư được nhắc tới trong thí dụ thứ 25 của Vô Môn Quan, và trong các thí dụ 34 và 68 của Bích Nham Lục.
---o0o---
Công Án
1) Ngưỡng Sơn Bất Tằng Du Sơn
Thí dụ thứ 34 của Bích Nham Lục. Ngưỡng Sơn hỏi một vị Tăng:
- Vừa rời chỗ nào?
Vị Tăng thưa:
- Lô Sơn
Ngưỡng Sơn hỏi:
- Từng dạo Ngũ Lão Phong chăng?
Vị Tăng thưa:
- Chẳng từng đến.
Ngưỡng Sơn nói:
- Xà Lê chẳng từng dạo núi.
Về sau Vân Môn nói: “Lời này vì cớ từ bi nên nói rơi trong cỏ’’.
2) Ngưỡng Sơn Chỉ Tuyết
Công án nói về cơ duyên về những lời dạy của Thiền sư Ngưỡng Sơn Huệ Tịch. Theo Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, quyển XI, một hôm tuyết đổ trắng, phủ đầy trên mình con sư tử đá trước sân. Thiền sư Ngưỡng Sơn chỉ sư tử rồi hỏi đại chúng:
- Có thứ gì trắng hơn màu này không?
Không ai trả lời được. Về sau, Thiền sư Vân Môn Văn Yển bình: "Ngay lúc ấy nên xô ngã." Thiền sư Tuyết Đậu Trùng Hiển lại bình Vân Môn rằng: "Chỉ biết xô ngã, chẳng biết đở dậy".
3) Ngưỡng Sơn Đắc Thể Thất Dụng
Công án nói về cơ duyên vấn đáp giữa Thiền sư Qui Sơn Linh Hựu và đệ tử của mình là Ngưỡng Sơn Huệ Tịch. Theo Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, quyển IX, một hôm, Qui Sơn cùng chúng hái trà. Sư bảo Ngưỡng Sơn:
- Trọn ngày hái trà chỉ nghe tiếng con mà không thấy hình con.
Ngưỡng Sơn liền rung cây trà. Sư bảo:
- Con chỉ được cái dụng của nó, chẳng được cái thể của nó.
Ngưỡng Sơn thưa:
- Hòa Thượng nói sao?
Sư im lặng. Ngưỡng Sơn nói:
- Hòa Thượng chỉ được cái thể của nó, không được cái dụng của nó.
Sư nói:
- Cho con ba chục gậy.
Ngưỡng Sơn nói:
- Nếu con lãnh ba chục gậy của Hòa Thượng thì ai lãnh ba chục gậy của con đây?
Qui Sơn nói:
- Vậy tha cho con ba chục gậy.
4) Ngưỡng Sơn Sáp Thâu: Ngưỡng Sơn cắm xuổng
Công án nói về cơ duyên vấn đáp giữa Thiền sư Qui Sơn và đệ tử của mình là Ngưỡng Sơn Huệ Tịch. Theo Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, quyển XI, một hôm Thiền sư Qui Sơn hỏi Ngưỡng Sơn:
- Từ đâu về?
Ngưỡng Sơn đáp:
- Từ ruộng về.
Qui Sơn lại hỏi:
- Trong ruộng có bao nhiêu người?
Ngưỡng Sơn liền cắm xuổng xuống đất rồi khoanh tay đứng nhìn. Qui Sơn nói:
- Nam Sơn có nhiều người cắt cỏ." Ngưỡng Sơn lại nhổ cây xuổng lên rồi vác đi
6) Ngưỡng Sơn Thời Xuất Chẩm Tử: Ngưỡng Sơn đẩy cái gối
Công án nói về cơ duyên vấn đáp giữa Thiền sư Ngưỡng Sơn Huệ Tịch và một vị Tăng. Theo Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, quyển XI, một hôm, có một vị Tăng hỏi Ngưỡng Sơn:
- Pháp Thân có thuyết pháp chăng?
Ngưỡng Sơn đáp:
- Lão Tăng không thuyết được, nhưng có một người thuyết được.
Vị Tăng lại hỏi:
- Người thuyết được ở đâu?
Ngưỡng Sơn liền đẩy cái gối tới. Khi Qui Sơn nghe chuyện này, Sư bình rằng: "Huệ Tịch đang chơi với đao kiếm".
7) Ngưỡng Sơn Tùy Phần: Ngưỡng Sơn: Tùy hỏi mà đáp
Công án nói về cơ duyên vấn đáp giữa Thiền sư Qui Ngưỡng Sơn Huệ Tịch và một vị Tăng. Theo Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, quyển XI, một hôm, có một vị Tăng hỏi Thiền sư Ngưỡng Sơn:
- Biết chữ không?
Ngưỡng Sơn đáp:
- Tùy phần (tùy hỏi mà đáp).
Vị Tăng đi nhiễu một vòng theo chiều tay phải; Ngưỡng Sơn vẽ một chữ thập trên mặt đất. Vị Tăng lại đi một vòng theo hướng bên trái; Ngưỡng Sơn bôi chữ thập và sữa thành chữ vạn. Vị Tăng lại vẽ một vòng tròn, dùng hai tay nâng lên, như thể Tu La che mặt trời và mặt trăng. Ngưỡng Sơn lại vẽ một vòng tròn bao quanh chữ Vạn. Vị Tăng lại làm theo tư thế của Phật Lâu Chí (vị Phật thứ 1.000 trong thời Hiền Kiếp). Ngưỡng Sơn liền ấn khả và căn dặn hãy cố hộ trì Phật pháp
8) Ngưỡng Sơn Tứ Đằng Điều: Ngưỡng Sơn đánh bốn roi mây
Công án nói về cơ duyên vấn đáp giữa Thiền sư Ngưỡng Sơn Huệ Tịch và đệ tử của mình là Hoắc Sơn Cảnh Thông. Theo Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, quyển XI, một hôm Cảnh Thông đến tham vấn với thầy mình là Ngưỡng Sơn, Ngưỡng Sơn vẫn nhắm mắt ngồi yên. Cảnh Thông nói:
- Như thế! Như thế! 28 vị Tổ Ấn Độ cũng đều như thế, 6 vị Tổ Trung Hoa cũng như thế, Hòa Thượng lại cũng như thế, Cảnh Thông cũng như thế.
Nói xong, Cảnh Thông xoay sang bên phải đứng kiễng chân. Ngưỡng Sơn đứng dậy đánh cho Cảnh Thông 4 roi mây. Cảnh Thông nhân đó tự xưng Tập Vân Phong Hạ Tứ Đằng Điều Thiên Hạ Đại Thiền Phật.
9) Ngưỡng Sơn: Tương Bạn: Bồi tiếp, giúp đỡ cơm cháo
Theo Ngũ Đăng Hội Nguyên, quyển IX, và Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, quyển XI, một hôm, Thiền sư Ngưỡng Sơn thượng đường dạy chúng:
Sư thượng đường khai thị Thiền chúng:
- Chư vị nên hướng vào bên trong mà phản tỉnh, mà ngộ tự tâm, không nên chấp trước ngữ cú, ngôn giáo của ta. Từ vô thỉ kiếp đến nay, hễ chấp mê là không ngộ, vọng tưỏng căn sâu, khó mà dẹp trừ. Do đó mà phải mở ra pháp môn phương tiện, đoạt lấy chấp trước của quí vị, quét sạch cáu bẩn. Điều đó giống như có người đem vàng rồng trộn lẫn với bách hóa mở ra tiệm bán tạp hóa. Trong lúc bán hàng hóa, chỉ căn cứ vào nặng nhẹ, mà không cần biết cái quí vị cần là cứt chuột hay vàng rồng. Tiệm của Thạch Đầu bên kia là tiệm vàng 9999, tiệm của ta bên này là tiệm tạp hóa. Có người đến cần cứt chuột, ta đưa họ cứt chuột. Người khác đến cần vàng ròng, ta cũng tìm đưa cho họ.
Lúc đó, có ông tăng bước ra nói:
- Cứt chuột con đây không cần, xin Hòa thượng ban cho vàng ròng!
Sư nói:
- Mài giủa răng lưỡi bén nhọn như đầu mũi tên để mở miệng là mãi mãi không gặp chân Phật. Ta nếu nói Thiền tông thì bên mình tìm một người bầu bạn cũng không có, huống hồ có đâu năm trăm, bảy trăm người. Ta nếu nói Đông nói Tây, tức mọi ngươi chụm đầu lại thu nhặt, giống như dùng tay không gạt con nít, đều không phải chỗ thật. Ta nay rành rõ hướng về các ông nói chuyện bên mình Thánh chẳng nên đem tâm mà đáp vào, mà nên hướng vào biển tánh như thật mà tu. Không cần ba minh sáu thông, tại sao thế ? Ấy là chuyện bên mình Thánh mạt vậy !
Tăng không có lời lẽ đối đáp.
Sư tiếp lời:
- Các vị giờ đây nên thức kiến tự tâm, thông đạt bản thể. Nếu chưa ngộ tự tâm và bản thể, bất kể tham học thế nào cũng đều chẳng nên việc.
Chư vị đừng có nói là chưa từng nghe Hòa thượng Qui Sơn nói: ‘Vượt khỏi phàm Thánh, chân tánh hiển lộ. Lý sự không hai, tức là như như Phật’ nhé !
10) Ngưỡng Sơn Vấn Tam Thánh Huệ Nhiên
Theo thí dụ thứ 68 của Bích Nham Lục. Ngưỡng Sơn hỏi Tam Thánh:
- Ông tên gì?
Tam Thánh thưa:
- Huệ Tịch.
Ngưỡng Sơn nói:
- Huệ Tịch là tên ta.
Tam Thánh thưa:
- Huệ Nhiên.
Ngưỡng Sơn cười ha hả!
11) Ngưỡng Sơn: Xà Nhập Trúc Đồng: Rắn chui vào ống tre
Trong nhà Thiền, từ nầy được dùng để chỉ hành giả gặp phải sự mờ mịt trong thiền tập. Theo Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, quyển XI và Ngũ Đăng Hội Nguyên, quyển IX:
Ngưỡng Sơn hỏi Hương Nghiêm:
- Sư đệ gần đây có cao kiến gì?
Hương Nghiêm nói:
- Đệ chẳng có cao kiến gì, nhưng có một bài pháp kệ:
Khứ niên bần vị thị bần
Kim niên bần thỉ thị bần
Khứ niên bần vô rác trùy chi địa
Kim niên bần trùy dã vô.
Tạm dịch:
Năm qua nghèo chẳng phải là nghèo
Năm nay nghèo mới thật là nghèo
Năm qua không mảnh đất cắm dùi
Năm nay ngay cả dùi cũng không.
Ngưỡng Sơn nói:
- Sư đệ ngộ Như Lai thiền mà chưa ngộ Tổ Sư thiền.
Một vị Tăng gần đó hỏi:
- Ý này thế nào?
Ngưỡng Sơn đáp:
- Xà nhập đồng trúc (rắn chui vào ống tre).
Sư lại nói bài kệ:
Ngã hữu nhất cơ
Thuần mục thị y
Nhược nhơn bất hội
Biệt hoán Sa Di.
Dịch:
Ta có một cơ,
Chớp mắt chỉ y.
Nếu người chẳng hội,
Riêng gọi Sa Di.
Ngưỡng Sơn gật đầu và về thưa lại Qui-Sơn:
- Đáng mừng! Sư đệ Trí Nhàn đã ngộ Tổ Sư Thiền.
12) Ngưỡng Sơn Xuất Tỉnh: Ngưỡng Sơn ra khỏi giếng.
Công án nói về cơ duyên vấn đáp giữa Thiền sư Thạch Sương Tánh Không và đệ tử của mình là Ngưỡng Sơn Huệ Tịch. Theo Ngũ Đăng Hội Nguyên, quyển IX, khi Ngưỡng Sơn còn làm thị giả cho thiền sư Tánh Không, một hôm có một vị Tăng đến hỏi thiền sư Tánh Không Thạch Sương:
- Ý nghĩa của việc Trưởng lão đến từ phương Tây là gì?
Sư bảo:
- Giả sử có một người bị rơi xuống tận đáy giếng sâu ngàn thước, nếu ông có thể kéo y lên khỏi mà không cần đến một tấc dây, ta sẽ trả lời cho ông ý chỉ của Tổ Sư từ Tây đến.
Vị Tăng dường như không lấy đó làm trọng; nên nói:
- Gần đây, Hồ Nam Sướng Hòa Thượng trụ trì tại một tu viện cũng có chỉ giáo này nọ cho chúng tôi về vấn đề ấy.
Sư gọi vị sa di thị giả và ra lệnh:
- Hãy mang cái thây ma này tống khứ đi.
Vị sa di thị giả đó chính là Ngưỡng Sơn Huệ Tịch, một trong những tay cự phách của Thiền. Về sau Ngưỡng Sơn có đến hỏi Đam Nguyên làm sao kéo người kia ra khỏi giếng. Đam Nguyên bảo:
- Suỵt! Đồ ngu, ai ở dưới giếng.
Sau nữa, Ngưỡng Sơn lại đi hỏi Qui Sơn làm cách nào để kéo người kia ra khỏi giếng. Qui Sơn gọi:
- Huệ Tịch (tên của Ngưỡng Sơn).
Ngưỡng Sơn đáp:
- Dạ, bẩm Hòa Thượng
Qui Sơn nói:
- Kìa, ra rồi.
Đến khi đủ duyên của Thiền và trụ trì tại Ngưỡng Sơn, lúc ấy Ngưỡng Sơn thường nhắc đến những cuộc phiêu lưu này và bảo: "Ở Đam Nguyên ta được danh, ở Quy Sơn ta được thể".
---o0o---
Ngưỡng Sơn Và Quy Ngưỡng Tông
Ngũ Gia Thiền chỉ giáo pháp riêng biệt được giảng dạy từ những truyền thống có liên hệ tới những vị Thiền sư đặc biệt. Ba trong số năm truyền thống này: Tào Động, Vân Môn, và Pháp Nhãn, đi xuống từ dòng truyền thừa được truy nguyên ngược về Thanh Nguyên Hành Tư và Thạch Đầu Hy Thiên. Hai truyền thống kia: Lâm Tế và Quy Ngưỡng, được tiếp nối từ Mã Tổ Đạo Nhất và Bách Trượng Hoài Hải. Tông Lâm Tế về sau này lại sản sanh ra hai nhánh Dương Kỳ và Hoàng Long. Khi mà hai phái sau này được thêm vào Ngũ Gia thì người ta gọi đó là Thất Tông. Một khi Ngưỡng Sơn đã được thừa nhận là người nối pháp của Qui Sơn, hai thầy trò tiếp tục thử nhau về sự hiểu biết trong suốt thời gian họ sống tu bên nhau. Trong thời gian đó, Sư cùng thầy mình phát triển trường phái mà về sau này mang tên của hai người. Vì vậy Quy Ngưỡng tông là một dòng Thiền được sáng lập bởi hai đệ tử của ngài Bách Trượng Hoài Hải. Quy là chữ đầu của Quy Sơn Linh Hựu (đệ tử của ngài Bách Trượng). Ngưỡng là chữ đầu của Ngưỡng Sơn Huệ Tịch (đệ tử của ngài Quy Sơn). Vào giữa thế kỷ thứ mười, tông phái nầy sáp nhập vào tông Lâm Tế nên từ đó nó không còn tồn tại như một tông phái độc lập nữa.
|