Additional Info
Phổ Minh
普 明. Thiền tăng đời Nguyên, họ Tào, hiệu Tuyết Song, người Tùng Giang (Thượng Hải) Trung Quốc. Sư tham kiến Hối Cơ Nguyên Chiếu đắc pháp, đồng môn với Tiếu ẩn Đại Hy. Niên hiệu Chí Trị thứ 2 (1322) những vị Tăng lẫn Nho sĩ giỏi thư pháp đều tụ hội về Bắc Kinh, vua Anh Tông sai Phổ Minh viết kinh bằng chữ vàng. Niên hiệu Chí Nguyên thứ 4 (1338) sư trụ trì chùa Vân Nham ở Tô Châu. Niên hiệu Chí Chính thứ 4 (1344) xây dựng lại chùa Thừa Thiên sau khi bị hỏa tai và nhận chức trụ trì. Sau trụ chùa Bồ Đề Gia Định (Thượng Hải). Sư giỏi châm cứu lại khéo vẽ hoa lan, cùng đạo sĩ Bách Tử Đình đều nổi tiếng. Niên hiệu Nguyên Thống thứ 1 (1333) sư sáng tác “Sơn Thủy Đồ”. Niên hiệu Chí Thánh thứ 8 (1348) sáng tác “Lan Thạch Đồ”.
(雪窻普明, Sessō Fumin, khoảng thế kỷ 13-14): vị tăng sống dưới thời nhà Nguyên, không rõ xuất thân, năm sinh và mất, tự là Tuyết Song (雪窻), đệ tử của Hối Cơ Nguyên Hy (晦機元熙), đồng môn với Tiếu Ẩn Đại Hân (笑隱大訢), chuyên về vẽ hoa lan. Vào năm thứ 2 (1322) niên hiệu Chí Trị (至 治) đời vua Anh Tông, tất cả tu sĩ của Phật Giáo và Nho Giáo có năng khiếu về hội họa của vùng Giang Nam (江南) đều tập trung về Bắc Kinh (北京), khi nhà vua hạ lệnh cho ông viết kinh bằng chữ vàng, cũng có vị danh tăng Sở Thạch Phạm Kỳ (楚石梵琦) tham dự. Vào năm thứ 4 (1338) niên hiệu Chí Nguyên (至元) đời vua Thuận Đế, ông làm trú trì Vân Nham Tự (雲巖寺), rồi đến năm thứ 4 (1344) niên hiệu Chí Chánh (至正) làm trú trì Thừa Thiên Tự (承天寺).
● (雪峰廣錄, Seppōkōroku): xem Tuyết Phong Chơn Giác Thiền Sư Ngữ Lục (雪峰眞覺禪師語錄, Seppōshinkakuzenjigoroku) (雪峰義存, Seppō Gison, 822-908): người Huyện Nam An (南安縣), Tuyền Châu (泉州, thuộc Tỉnh Phúc Kiến), họ là Tằng (曾), sinh năm thứ 2 niên hiệu Trường Khánh (長慶). Năm lên 12 tuổi, ông cùng với cha mình đến tham yết Khánh Huyền Luật Sư (慶玄律師) ở Ngọc Tuyền Tự (玉泉寺) thuộc Huyện Bồ Điền (莆田縣, thuộc Tỉnh Phúc Kiến) và làm Sa Di tại đây. Năm lên 17 tuổi, ông được đặt cho pháp húy là Nghĩa Tồn. Đến năm lên 24 tuổi, gặp phải nạn phế Phật Hội Xương, ông mặc đồ thế tục đến tham bái Phù Dung Linh Huấn (芙蓉靈訓). Về sau, ông đến làm môn hạ của Động Sơn Lương Giới (洞山良价), chuyên chịu trách nhiệm nấu cơm cho chúng ăn; nhưng vì cơ duyên chưa khế ngộ nên ông theo lời chỉ thị đến tham học với Đức Sơn Tuyên Giám (德山宣鑑). Có hôm nọ, ông cùng với Nham Đầu Toàn Khoát (巖頭全奯) và Khâm Sơn Văn Thúy (欽山文邃) đi hành cước đến Ngao Sơn (鰲山) vùng Lễ Châu (澧州, thuộc Tỉnh Hồ Nam) thì bị tuyết rơi mắc kẹt không đi được, nên cả ba đều chuyên tâm ngồi Thiền. Sau ông đại ngộ và kế thừa dòng pháp của Đức Sơn. Vào năm thứ 9 (868) niên hiệu Hàm Thông (咸通), ông đến trú ở Linh Động Nham (靈洞巖), rồi sau đó vào ẩn cư trong Tượng Cốt Phong (象骨峰) ở Phúc Châu (福州, thuộc Tỉnh Phúc Kiến). Đến năm đầu niên hiệu Càn Phù (乾符), chùa của ông được ban cho hiệu là Ứng Thiên Tuyết Phong Tự (應天雪峰寺). Chính nơi đây ông đã quy y cho rất nhiều quan lại của triều đình. Vào năm thứ 2 (882) niên hiệu Trung Hòa (中和), ông được Hy Tông Hoàng Đế (禧宗皇帝) ban cho Tử Y và hiệu là Chơn Giác Đại Sư (眞覺大師). Môn hạ của ông có những nhân vật xuất chúng như Huyền Sa Sư Bị (玄沙師僃), Trường Khánh Huệ Lăng (長慶慧稜), Cổ Sơn Thần Yến (鼓山神晏), Vân Môn Văn Yển (雲門文偃), Bảo Phước Tùng Triển (保福從展), v.v., đã lấy vùng đất Giang Nam làm trung tâm để cổ xướng tông phong độc đáo của ông. Vào ngày mồng 2 tháng 5 năm thứ 2 (908) niên hiệu Khai Bình (開平), ông thị tịch, hưởng thọ 87 tuổi đời và 59 hạ lạp. Ông còn lưu lại bộ Tuyết Phong Chơn Giác Thiền Sư Ngữ Lục (雪峰眞覺禪師語錄) 2 quyển
|