Additional Info
Cư Sĩ Bàng Uẩn
Pháp tự đời thứ hai của Nam Nhạc Hoài Nhượng
Pháp tự của Mã Tổ Đạo Nhất
(龐蘊居士, Hōun Koji, ?-808). Cư sĩ Bàng Uẩn ở Tương Châu là người huyện Hành Dương (衡陽, Tỉnh Hồ Nam) tự là Đạo Huyền (道玄). Gia thế theo nghiệp Nho, nhưng cư sĩ sớm ngộ đạo Phật, chí cầu chân đế, chuyển đến Tương Dương (襄陽, Tỉnh Hồ Bắc). Đầu đời Đường Trinh Nguyên (貞元,785), cư sĩ đến tham yết Thạch Đầu Hy Thiên (700-790,石頭希遷), hỏi:
- Chẳng cùng muôn pháp làm bạn là người gì?
Thạch Đầu lấy tay bụm miệng ông. Ông bỗng nhiên tỉnh ngộ, lại làm bạn cùng thiền sư Đan Hà Thiên Nhiên (739-824,丹霞天然), Dược Sơn Duy Nghiễm (751-834,藥山惟儼), Tề Phong (齊 峰), Bách Linh (百靈), Tùng Sơn (松山), Đại Đồng Phổ Tế (大同普濟), Trường Tì Khoáng (長髭曠), Bổn Hoát (本豁), Đại Mai Pháp Thường (752-839, 大梅法常), Phù Dung Thái Dục (芙 蓉 太 毓), Tắc Xuyên (則 川), Lạc Phố (洛 浦), Thạch Lâm (石 林), Ngưỡng Sơn (807-883, 仰 山), Cốc Ẩn Tư (谷 隱 孜), v.v. .
Ngày nọ Thạch Đầu hỏi rằng:
- Ông từ ngày đến gặp ta, vật dụng sinh hoạt qua ngày thế nào ?
Sĩ đáp:
- Nếu hỏi vật dụng hằng ngày thì không có chỗ mở miệng đâu.
Lại trình một bài kệ:
Nhật dụng sự vô biệt
Duy ngô tự ngẫu hài
Đầu đầu phi thủ xả
Xứ xứ vật trương quai
Chu tử thùy vi hiễu
Khâu sơn tuyệt điểm ai
Thần thông tịnh diệu dụng
Vận thủy cập bàn sài.
Tạm dịch:
Hằng ngày không phân biệt
Do ta tự ngẫu hài
Nơi nơi không buông nắm
Chốn chốn chẳng vướng quai
Đỏ tía ai xưng hiểu
Khâu sơn chẳng điểm ai
Thần thông cùng diệu dụng
Gánh nước cùng dọn cây.
Thạch Đầu đồng ý nói:
- Ông muốn xuất gia hay làm cư sĩ ?
Sư sĩ đáp:
- Xin được theo chỗ ưa thích.
Bèn chẳng xuống tóc. Sau đó cư sĩ đi Giang Tây tham vấn Mã Tổ Đạo Nhất (709-788) rằng:
- Kẻ chẳng làm bạn với vạn pháp là người thế nào ?
Mã Tổ nói:
- Đợi chừng nào miệng ông hớp ngậm hết nước sông Giang Tây ta sẽ nói cho ông nghe.
Cư sĩ vừa nghe qua liền lĩnh hội huyền chỉ, bèn lưu lại Giang Tây tham thừa Mã Tổ được hai năm.
*
Cư sĩ Bàng Uẩn hỏi Mã đại sư:
- Nước không gân xương mà khéo nâng chiếc thuyền to muôn hộc, lý ấy là thế nào ?
Đại sư đáp:
- Trong ấy không nước cũng không thuyền, nói gì đến gân xương ?
*
Sau khi đốn ngộ, khoảng niên hiệu Nguyên Hòa (806-820), ông du hành về phương Bắc, thấy phong thổ vùng Tương Dương thích hợp, bèn đem hết của cải chất lên thuyền, nhận chìm hết xuống sông; rồi cùng vợ con cày ruộng ở chân núi Lộc-môn, sống cuộc đời đạm bạc. Ông chỉ cất một cái thất nhỏ ở tu hành. Có người con gái tên Linh Chiếu (靈照) thường theo hầu hạ, chuyên việc chẻ tre bện sáo bán nuôi cha. Ông có làm bài kệ:
Có bài kệ rằng:
Hữu nam bất hôn
Hữu nữ bất giá
Đại gia đoàn loan đầu
Cộng thuyết vô sinh hoạt.
Tạm dịch:
Con trai không hỏi cưới
Con gái không gả chồng
Mọi người cùng quây quần
Hợp nói nghĩa vô sanh.
Từ đó cư sĩ phong cơ mẫn tiệp, biện tài vô ngại, thiền giả tứ phương ngưỡng mộ đạo phong của cư sĩ đến để dùi mài Thiền cơ. Cư sĩ thường đến các đạo tràng tùy hỷ nghe giảng kinh Kim Cang đến chỗ không ta không người, bèn hỏi người giảng:
- Này tọa chủ, nếu đã không ta không người thì ai là người nói, ai là người nghe ?
Tọa chủ tắt họng không thể đối đáp. Cư sĩ nói:
- Kẻ hèn này tuy là tục lữ nhưng cũng biết chút đỉnh.
Tọa chủ nói:
- Theo ý cư sĩ thì thế nào ?
Cư sĩ bèn khai thị một bài kệ :
Vô ngã phục vô nhân
Tác ma hữu sơ thân
Khuyến quân hưu lịch tọa
Bất tự trực cầu chân
Kim cang Bát nhã tánh
Ngoại tuyệt nhất sấm trần
Ngã văn tánh tín thụ
Tổng thị giả danh trần.
Tạm dịch:
Không người lại không ta
Sao lại có sơ thân
Khuyên ông đừng ngồi mãi
Chẳng giống trực cầu chân
Tánh Kim Cang Bát-nhã
Ngoài tuyệt chẳng mảy trần
Tôi nghe cùng tin thọ
Chỉ là giả danh trần.
Tọa chủ nghe kệ vui mừng khen ngợi.
Những nơi mà cư sĩ đến, các bậc học rộng hiểu nhiều đều vấn nạn nọ kia, nhưng cư sĩ cứ thong dong tự tại, tùy cơ ứng đáp chớ chẳng bao giờ bo bo ôm lấy nghĩa kinh, bị hạn chế cứng ngắt bởi khuôn sáo.
Lúc này Cư sĩ có bài kệ như sau:
Phiên âm:
Tâm như cảnh diệc như
Vô thực diệc vô hư
Hữu diệc bất quản
Vô diệc bất cư
Bất thị hiền thánh
Liễu sự phàm phu
Dịch phục dịch
Tức thử ngũ uẩn hữu chân trí
Thập phương thế giới nhất thừa đồng
Vô tướng Pháp thân khởi hữu thị
Nhược xá phiền não nhập Bồ đề
Bất tri hà phương hữu Phật địa.
Tạm dịch:
Tâm như cảnh cũng như
Không thật cũng không hư
Hữu cũng chẳng màng
Vô cũng chẳng cư
Chẳng phải hiền Thánh
Chỉ biết phàm phu
Đổi lại đổi
Tức ngũ uẩn kia có chân trí
Mười phương thế giới vốn đồng nhau
Pháp thân vô tướng há hai sao
Nếu bỏ phiền não vào Bồ-đề
Chẳng biết đất Phật ở nơi nao.
Lại có bài kệ:
Hộ sanh tu thị sát
Sát tận thủy an cư
Hội đắc cá trung ý
Thiết truyền thủy thượng phù.
Dịch:
Hộ sanh cần phải giết
Giết hết mới ở yên
Hiểu được ý trong đó
Thuyền sắt nổi phao phao.
*
Ông đến viếng Đơn Hà. Đơn Hà làm thế chạy.
Ông nói:
- Vẫn là thế phóng thân, thế nào là thế tần thân?
Đơn Hà liền ngồi.
Ông lấy gậy vẽ dưới đất chữ Thất.
Đơn Hà vẽ đáp chữ Nhất.
Ông nói:
- Nhân bảy thấy một, thấy một quên bảy.
Đơn Hà đứng dậy đi.
Ông gọi:
- Hãy ngồi nán một chút, vẫn còn câu thứ hai.
Đơn Hà bảo:
- Trong ấy nói được sao?
Ông bèn khóc ra đi.
*
Một hôm, ngồi trong am, ông chợt nói:
- Khó khó mười tạ dầu mè trên cây vuốt. (Nan nan thập thạch du ma thọ thượng than.)
Long bà đáp:
- Dễ dễ trên đầu trăm cỏ ý Tổ sư. (Dị dị bách thảo đầu thượng Tổ sư ý.)
Linh Chiếu tiếp:
- Cũng chẳng khó cũng chẳng dễ, đói đến thì ăn, mệt ngủ khò. (Dã bất nan, dã bất dị, cơ lai khiết phạn khốn lai thùy.)
*
Ông ngồi hỏi Linh Chiếu:
- Cổ nhân nói: “sáng sáng đầu trăm cỏ, sáng sáng ý Tổ sư” (minh minh bách thảo đầu, minh minh Tổ sư ý) là sao?
Linh Chiếu thưa:
- Lớn lớn già già thốt ra lời nói ấy. (Lão lão đại đại tác giá cá ngữ thoại.)
Ông hỏi:
- Con thế nào?
- Sáng sáng đầu trăm cỏ, sáng sáng ý Tổ sư.
Ông bèn cười.
*
Cư sĩ sắp nhập diệt bảo con gái cưng Linh Chiếu ra ngoài cửa coi mặt trời sớm trưa, đến giờ ngọ thì báo cho biết. Con gái vội báo:
- Mặt trời đã đứng bóng, nhưng có nhựt thực.
Cư sĩ vừa bước ra ngoài xem thì Linh Chiếu leo lên chỗ ngồi của cha, chấp tay mà mất. Cư sĩ cười bảo:
- Con gái ta cơ phong mẫn tiệp thật.
Bèn dời ngày mất lại bảy ngày.
Quan coi châu này là Vu Do (于頔,Vu công Địch) đến thăm bịnh, Cư sĩ nói với ông ta:
- Xin coi các có là không, đừng coi các không là có. Tham luyến thế gian, chẳng khác nào bắt bóng, đuổi theo tiếng.
Nói xong Cư sĩ gác đầu lên vế Vu công mà qua đời.
Theo lời Cư sĩ trăn trối, sau khi hỏa thiêu lấy tro xương rải xuống sông hồ. Cả hai giới tăng tục khi nghe tin Cư sĩ qua đời đều không khỏi buồn thương cảm luyến.
*
Tin ông tịch đưa về nhà cho bà hay.
Bà nói:
- Con gái ngu si với ông già vô tri, không báo tin mà đi, sao đành vậy?
Bà ra báo tin cho con trai đang làm ngoài đồng. Bà nói:
- Long công với Linh Chiếu đi rồi con!
Người con trai đang bừa đáp:
- Dạ!
Rồi lặng thinh giây lâu bèn đứng mà tịch.
Bà nói:
- Thằng này sao ngu si lắm vậy!
Lo thiêu con xong, bà đi từ biệt thân thuộc rồi biệt tích.
Về năm tháng thị tịch của ông, bộ Tổ Đường Tập (祖堂集) cho rằng ông thị tịch vào ngày nhật thực, và căn cứ vào thời gian nhiệm kỳ Sắc Sứ của Vu Do tại Tương Châu, người ta cho rằng ông thị tịch vào mồng 1 tháng 7 năm thứ 3 (808) niên hiệu Nguyên Hòa (元和).
*
Đời cho Cư sĩ ở chốn Thiền môn chẳng khác nào Duy-ma-cật ở thành Tỳ-da-ly khi xưa vậy. Cư sĩ có để lại hơn 300 bài thi kệ lưu truyền trong đời.
Người bạn của ông làm tiết độ sứ Vu-điền, đem những lời nói của ông, chép thành quyển Bàng Cư Sĩ Ngữ Lục (龐居士語錄) 2 quyển để truyền bá Thiền phong độc đáo của Bàng Uẩn, rất được chốn thiền môn coi trọng; các sách thiền học như Tổ Đường Tập, Tông Cảnh Lục, Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, v.v... đều có dẫn chứng.
Bản hiện còn đến nay là bản đã được in lại vào năm Sùng Trinh thứ 10 đời Minh, cộng có ba quyển.
|