Additional Info
Thiền Sư Phụng Viện Quốc Thanh
Pháp tự đời thứ tư của Nam Nhạc Hoài Nhượng
Pháp tự của Thiền Sư Triệu Châu Tùng Thẩm
Hỏi:
- Tổ ý (Thiền) và Giáo ý (Giáo) giống hay là khác nhau ?
Sư đáp:
- Mưa nhuần cây cỏ tốt. Gió xuân chẳng che đầu.
Hỏi:
- Thế rốt lại là một hay là hai ?
Sư đáp:
- Mây lành tranh nhau nổi. Hang động chẳng thiếu chi.
*
Hỏi.
- Thế nào là thói nhà của Hòa thượng?
Sư đáp:
- Ghế dựa trên mâm đá, cửa sổ trong lò lửa.
Hỏi:
- Thế nào là người xuất gia?
Sư đáp:
- Đầu đồng, trán sắt, mỏ chim, mình nai.
Hỏi:
- Thế nào là bổn phần sự của người xuất gia?
Sư đáp:
- Sáng dậy ‘Xin hỏi’, tối đến ‘Tạm biệt’.
*
Hỏi:
- Ngưu Đầu Pháp Dung khi chưa gặp Tứ Tổ Đạo Tín thì sao lại được trăm chim hiến hoa ?
Sư đáp:
- Như người Lũng phủ đưa tiền tài cho bò sắt.
Hỏi:
- Sau khi gặp rồi tại sao chim không ngậm hoa hiến dâng nữa ?
Sư đáp:
- Ngựa gỗ vừa hừng sáng chạy tám trăm dặm.
*
Hỏi:
- Mười hai thời trong ngày làm sao hàng phục cái tâm ?
Sư đáp:
- Khều nước đá tìm lửa, bao kiếp cũng không gặp.
Hỏi:
- Mười hai phần giáo là nghĩa chân đế. Rời khỏi chân đế thỉnh sư nói một câu ?
Sư nói:
- Bé gái tóc rẻ trái đào ở trên đỉnh núi cheo leo.
*
Hỏi:
- Thế nào là đại ý của Phật pháp?
Sư nói:
- Đức Thích Ca là lính đầu trâu coi ngục dưới âm phủ. Tổ sư là quỷ a bàng mặt ngựa ở âm cung.
Hỏi:
- Thế nào là chỉ ý của Tổ sư từ Tây lại?
Sư đáp:
- Vách Đông đánh vách Tây.
Hỏi:
- Thế nào là câu đập không bể ?
Sư đáp:
- Chẳng cách đầu sợi lông vậy mà thời nhân cách xa.
|