0-TS Hòa Sơn Ðức Phổ

Personal Information

Danh Tánh
0-TS Hòa Sơn Ðức Phổ
Gender ♂️ Male

Hành Trạng

Additional Info

29. Thiền sư Ðức Phổ ở Hòa sơn. Thiền sư Ðức Phổ ở Hòa sơn tại Cát châu, vốn người dòng họ Bồ ở Huyện châu. Thủa thiếu thời Sư chuộng khí tiết, có sức nhận biết trác tuyệt, thấy gặp Thiền sư Tĩnh ở núi Phú lạc, bèn liền chấp tay đảnh lễ nói: “Ðây là thầy tôi vậy”. Thiền sư Tĩnh bèn cùng nói Sư kỳ đặc, dẫn Sư về trong núi ngầm xét xem, thấy cử chỉ động niệm của Sư tợ như lão Tăng tu hạnh đầu đà. Thiền sư Tĩnh bảo: “Ông này bẩm tánh hào phóng chẳng nhận chịu sự khống chế, mà hay chỉ tiết cối chày đun nấu để phụng sự đại chúng làm việc chuyên, thật là hiếm có”. Ðến năm mười tám tuổi, Sư được độ, thọ giới Cụ túc, ưu tú kiệt xuất nơi giảng tịch. Sư giải Duy thức luận và Khởi tín luận. Lưỡng xuyên không một ai dám cật nạn, xưng gọi Sư là “Nghĩa Hổ”. Sư bắt tội Khuê Phong làm sớ nghĩa phần nhiều là ức đoán tự nói, chỉ trích các điểm lỗi quấy, răn dạy người học không nên tin đó. Các bậc lão túc đều từng cùng nói với Sư rằng: “Khuê Phong là người được Quốc sư Lương ấn chứng. Chỉ mình ông lấy sức gà mái kiến càng mà lay cây ấy vậy”. Sư than rằng: “Người học vì danh vị làm mê hoặc đã lâu dài rồi vậy. Lương và Khuê Phong chẳng có bốn mắt tám tay, cớ sao cam tự khuất phục thối lùi ư?” Sư mới ra đất Thục đến Kim loan, Kinh châu, ban đêm cùng nghỉ với một vị Tăng - chợt quên tên vị đó hiện nay làm am chủ Tình tại Liễu sơn. Nghe vị ấy đã no đủ mọi dự tham, Sư bèn hỏi: “Kinh luận có trái phụ gì đối với Thiền tông mà Trưởng lão phần nhiều quở trách vậy ư?” Vị nạp Tăng ấy đáp: “Vì đó là thức tình nghĩa lý tư tưởng biên lường, chẳng hay phát Thánh đắc đạo. Giả sử như có người phát Thánh đắc đạo đều nương đó để làm duyên vậy. Nếu như chẳng có nhân tự ngộ, chỉ có kinh luận là nương cậy thì hay đọc hay biết hay thấy hay hiểu đều chứng Thánh thành đạo đi vậy, sao lại còn cùng bọn tôi tớ cúi ngưỡng ư? Bởi vì chỉ lấy câu chết mà làm sở tri chứng vậy, nên Tổ sư từ Tây vức lại, như kinh nói: “Hết thảy chúng sinh xưa nay vốn thành Phật”. Ông có tin vậy chăng?” Sư đáp: “Lời của Ðức Thế Tôn nói đâu dám không tin”. Vị nạp Tăng ấy tiếp bảo: “Ðã tin vậy thì sao còn khư khư xa dần đến đây vậy?” Sư đáp: “Nghe Thiền tông có pháp truyền riêng nên lại đây vậy”. Vị nạp Tăng ấy cười bảo: “Phải là chưa tin chẳng thể tin vậy”. Sư hỏi: “Bệnh ấy ở đâu?” Vị nạp Tăng ấy bảo: “Thiền sư Tuệ Nam ở am Tích thúy xuất hiện nơi đời đã lâu. Ông nên đến thấy đó, chẳng nên đến sau. Nếu được thấy thì sẽ khiến cho bệnh ông chóng lành vậy”. Ngay ngày ấy, Sư bèn cất bước ra đi. Năm Hy Ninh thứ nhất (1068) thời Bắc Tống thì Sư đến Hoàng long, Sư hỏi: “A-nan hỏi Ca-diếp” Ðức Thế Tôn trao truyền cho Kim Lan, ngoài ra còn truyền pháp gì chăng?” Tôn giả Ca-diếp gọi: “A-nan!” Tôn giả A-nan: “Dạ”. Tôn giả Ca-diếp bảo: “Ngược tức cán giết trước cửa nhằm”. Ý chỉ ấy như thế nào?” Thiền sư Tuệ Nam bảo: “Thượng nhân ra đất Thục đã từng đến Ngọc tuyền chăng?” Sư đáp: “Ðã từng đến”. Lại hỏi: “Ðã từng treo bát chăng?” Sư đáp: “Chỉ một đêm bèn đi”. Lại bảo: “Ðạo tràng trí giả là quan ải tướng quân đánh cúng, cùng kết duyên thời nào sao phòng ngại?” Sư im lặng giây lát, mới nhận hiểu câu hỏi trước. Thiền sư Tuệ Nam cúi đầu, Sư rảo bước đi ra, bỗng nhiên mà có sự tỉnh ngộ, rất kinh ngạc bảo là: “Nghĩa Hổ của Lưỡng xuyên mà chẳng tiêu một khạc nhổ của lão đây!” Mùa thu năm Hy Ninh thứ tám (1075) thời Bắc Tống, Sư vân du đến Loa xuyên, Ðãi chế Lưu Công thỉnh mời Sư đến ở Thiền viện Tuệ vân, được bảy năm, Sư chuyển dời đến ở Hòa sơn được mười hai năm. Ðến ngày 15 tháng 12 năm Nguyên Hựu thứ năm (1090) thời Bắc Tống, Sư bảo mọi người chung quanh rằng: “Những bậc tôn túc ở các phương tịch tại tùng lâm hẳn cúng tế, tôi cho đó là nhọc thiết bày dối trá. Nếu tôi chết, các người nên cúng tế trước”. Và Sư mới bảo: “Từ nay nên bày biện để cúng tế”. Ðồ chúng cho là Sư đã già mà khéo nói đùa, hỏi rằng: “Bao giờ Hòa thượng thị tịch?” Sư đáp: “Các ông cúng tế xong thì đi”. Từ đó, Sư ngồi trong nhà nghỉ, đồ chúng thiết đặt mọi thứ cúng tế, đọc văn, quỳ, lạy, dâng thức ăn, Sư thọ thực tự nhiên. Từ môn nhân đệ tử trở xuống các hàng khỏe mạnh mỗi ngày lần lượt cứ như thế. Ðến ngày mồng một tháng giêng năm sau (1091), sau khi cúng tế hoàn tất, Sư bảo: “Ngày mai tuyết lạnh ta mới đi”. Ðến sáng sớm bỗng nhiên tuyết tan hết, Sư ngồi đốt hương mà thị tịch, hưởng thọ sáu mươi bảy tuổi, bốn mươi chín hạ lạp. Dựng tháp an táng toàn thân tại bên tả của chùa.

Contact Information

Phone
Array
Address Array
This entry was posted in . Bookmark the permalink.