Ngài Huyền Trang Tây du cầu đạo. Ngài lén lút rời Trung Hoa vào năm 6291Theo Bách Khoa Tôn Giaïo, Huyền Trang khởi hành năm 627 (Xem The Encyclopaedia of Religion, tập VI, Mircea Eliade (chủ biên), tr. 481)., vì lời thỉnh cầu xin xuất ngoại bị triều đình từ chối. Cuộc du hành ấy tưởng chừng bị chấm dứt ngay từ lúc khởi hành vì người hướng đạo có dã tâm giết ngài để trở về cố hương. Rất may Huyền Trang tránh được họa sát thân vì phát giác kịp thời. Theo “Bách Khoa Phật Học”, số lãnh địa ngài đã đi qua trước khi đến biên giới Bắc Ấn là Turfan, Agni, Kuche, ốc đảo trong sa mạc Gobi, Nujkend, Char, Ferghanad (ở Turkestan), Sutrishna, Samarkhand, Kesh, Kunduz, Bactria (hay Bhaktra), Bamiyan, và Kapisa. Sự cố khủng khiếp nhất xảy ra khi ngài phải đối mặt với nguy hiểm chết người của sa mạc Mo-kia-yen, dài 800 dặm. Sau khi vượt qua 100 dặm đầu, ngài bị lạc đường, lương thực cạn kiệt, nước uống hết sạch. Huyền Trang phải trải qua bốn đêm năm ngày tại sa mạc bao la trong tình trạng như thế Kenneth K.S. Ch’en nói rằng trong lần dừng chân lần đầu tiên của Huyền Trang tại Turfan, danh tiếng của ngài khiến tiểu vương xứ ấy kính mến và tìm cách mời ngài ở lại. Nhưng với ý chí sắt đá và lòng cương quyết vì mục đích cao đẹp của vị cao tăng, vua để ngài lên đường với một thư giới thiệu đến các nước, yêu cầu giúp đỡ ngài. Quả thật, bức thư ấy đã giúp ích ngài rất nhiều mỗi khi vượt qua các lãnh địa. Từ Turfan Huyền Trang tiến về Karashar, Tashkend, Samarkand, vượt qua dãy Hindukusk đến Kapisa. Từ đây, ngài vượt qua cao nguyên Iran xuống miền ôn đới Nagarahara. Sau khi viếng thăm Peshawar và Taxila tọa lạc ở Gandhàra, Huyền Trang tiến về Kasmir, lưu trú ở đây hai năm để học tập. Vào năm 633, ngài lên đường tiến về các thánh địa Phật giáo như Śràvastì, Kapilavastu, Kusinara, Banares, Vaiśàlì, Pàtaliputra, Bodhgaya. Sau khi chiêm bái Phật tích, Huyền Trang đã đến lưu trú hai lần tại đại học Nàlandà. Bên cạnh được học triết học của Duy Thức tông dưới sự dạy dỗ của Sìlabhadra (Giới Hiền)2 lúc này Giới Hiền đã 106 tuổi và là đệ tử đích truyền truyền của dòng truyền thừa Asanga và Vasubhandu., Huyền Trang nghiên cứu và học tập Sanskrit, triết học Ấn Độ và giáo lý của các bộ phái Phật giáo.
Khi đạt được mục đích của chuyến Tây du, Huyền Trang quyết định trở lại quê hương vào năm 645, sau 16 năm xa tổ quốc. Ngài chọn con đường phía Nam xuyên qua vùng Trung Á để trở về Trường An, kinh đô của nhà Đường. Người ta nói rằng kinh sách được ngài đưa về Trung Quốc trong chuyến hành hương ấy là 657 danh mục, bao gồm 1.330 chuan. Theo “Bách Khoa Phật Học”, số kinh điển do ngài đem về Trung Quốc bao gồm 224 cuốn kinh và 192 cuốn luận thuộc Đại thừa; 15 tác phẩm thuộc phái Sammitiya; 22 cuốn thuộc phái Mahiśàsaka, 67 cuốn thuộc phái Sthaviravàdin; 17 tác phẩm thuộc phái Kaśyapiya; 42 tác phẩm thuộc phái Dharmagupta; 36 bản sao của luận Hetuvidỳa; 13 bản sao của luận Sabdhaviya. Tổng cộng là 520 tập, gồm trong 657 quyển được 20 con ngựa tải về3Xem Encyclopeadia of Buddhism, tập V, W.G.Weeraratna (chủ biên), tr. 477..
Sau khi về nước, từ chối mọi đặc ân mà triều đình ban tặng, Huyền Trang dành thời gian còn lại của đời mình vào công tác phiên dịch số kinh điển ấy cho đến khi qua đời vào ngày 10 tháng 03 năm 664 trong sự ngưỡng mộ và tiếc thương vô hạn của vua dân nhà Đường. “Đại Đường Tây Du Ký” là tác phẩm vô cùng giá trị mà Huyền Trang biên soạn và để lại cho ngành sử học và khảo cổ học4Xem Buddhism in China, K.S. Kenneth Ch’en, tr. 238.. Đường Thái Tông ra lệnh cả nước không tụ họp, ăn chơi giải trí trong vòng ba ngày để tỏ lòng tôn kính vị danh tăng này.