Vào năm 671, Ngài Nghĩa Tịnh1Theo Bách Khoa Phật Học, Nghĩa Tịnh sinh năm 635 tại Fan-yang (Cho-chou ngày nay) dưới thời của Đường Thái Tông (627-649). Lúc 7 tuổi, ngài đã được học Giáo lý dưới sự hướng dẫn của hai vị danh tăng. Có lẽ ngài cũng được học các hệ thống tư tưởng khác của Trung Hoa. Năm 12 tuổi, ngài chỉ chuyên tâm vào Phật pháp. Năm 14 tuổi gia nhập tăng đoàn và thọ đại giới ở tuổi 20. Nghĩa Tịnh là đệ tử của Hui-hsi, một trong những Tỷ-kheo rất quan tâm đến giới luật. Noi theo gương Thầy, ngài để dành 5 năm để Nghiên Cứu và hành trì Luật tạng. Thể theo lời khuyên của Hui-hsi, ngài đến Đông Ngụy để học Abhidharma (Luận) của Asanga, tiếp đó đến Trường An để học Abhidharmakosa (Câu-xá Luận) của Vasubhandu và Vidyaìmaìtra-siddhi của Dharmapaìla (Pháp Hộ). Trong khi ở Trường An, dường như Nghĩa Tịnh khởi lên ý nghĩ Tây du qua hình ảnh của Huyền Trang, đặc biệt là qua đại tạng của ngài. (Sđd, tr. 605). là người đầu tiên rời cảng Canton2Quảng Châu đến Tamralipti (Ấn Độ năm 673) trên thuyền buôn của người Persia (Ba Tư). Sau khi chiêm bái các thánh tích, ngài định cư 10 năm tại Nà-lan-dà để học tập Thánh điển. Vì mục đích Tây du là sưu tập văn điển Phật giáo, Nghĩa Tịnh đã dành thời gian để tìm kiếm nhiều kinh sách quan trọng, mặc dầu luôn bận rộn học tập, nghiên cứu. Sau khi có được một lượng lớn kinh điển Sanskrit3Theo Bách Khoa Phật Học, Nghĩa Tịnh sưu tầm được khoảng 500.000 Sïlokas (đoạn hay bài) (Sđd, tr. 606)., Nghĩa Tịnh chuyển về Srivijaya (thuộc lãnh thổ Ấn Độ) để dịch sang Hoa văn. Tuy nhiên, vào năm 689 ngài quay về Canton để tìm thêm người cộng sự đối với một công việc to lớn như thế. Sau khi đã tuyển chọn được một số Tỷ-kheo có năng lực, ngài đã cùng họ trở lại Srivijaya để tiếp tục sự nghiệp phiên dịch. Nghĩa Tịnh chính thức trở lại Trung Hoa vào năm 695, sau hơn 5 năm sống và làm việc tại đó. Theo “Bách Khoa Phật Học”, hơn 20 năm kể từ ngày hồi hương ngài cống hiến toàn bộ thời gian và năng lực vào việc phiên dịch 56 tác phẩm, bao gồm 230 tập. Kenneth K.S Ch’en nói rằng cống hiến quan trọng nhất của Nghĩa Tịnh là công tác phiên dịch toàn bộ Luật tạng của Mùlasarvastivàda (Thuyết Nhứt Thiết Hữu Bộ) sang tiếng Hoa. Bên cạnh ấy, theo các sử gia, các tác phẩm có ý nghĩa nhất do Nghĩa Tịnh biên soạn là (1) “Nam Hải Ký Quy Nội Pháp Truyện”, gồm bốn tập chia thành 40 chương. Đây là tác phẩm liên quan đến các vấn đề giới luật được xây dựng trên cơ bản của Luật tạng Mùlasarvastivàda, (2) “Đại Đường Tây Vực Cầu Pháp Cao Tăng Truyện”, gồm hai tập, đề cập đến 56 Tỷ-kheo (hầu hết đi bằng đường biển) đến Ấn Độ và một số nước lân cận để cầu pháp trong thế kỷ thứ VII.
Cần lưu ý rằng mục đích chuyến hành hương của Nghĩa Tịnh là sưu tập các nguyên bản về kinh luật để bổ sung, hiệu đính nhằm tránh tối đa sự sai sót trong công tác giảng dạy và hành trì như đã xảy ra tại Trung Hoa trước khi ngài lên đường. Với mục tiêu rõ ràng như thế, bên cạnh việc biên tác một vài cuốn sách rất quan trọng, ngài đã tự thân phiên dịch 56 tác phẩm quan trọng về kinh luật. Mức độ chính xác trong việc dịch giảng của ngài không những thể hiện sự nỗ lực không mệt mỏi của ngài, mà còn chứng minh cho sự thành công của ngài trong việc loại trừ rất nhiều ngộ nhận và sai sót trong nội dung của giáo lý Phật giáo.