Additional Info
Ngài Bạch Viễn tự là Pháp Tổ, vốn họ Vạn, người Hà Nội. Cha là Uy Ðạt, bậc nho nhã tri thức có danh, những nơi châu phủ đều không đến. Pháp Tổ từ nhỏ đã phát đạo tâm, bỏ cha mẹ đi xuất gia. Từ lý cho đến ý chí cha đều không bằng, bèn cải phục theo đạo.
Pháp Tổ tư dung mẫn tiệp, tài trí tuyệt luân, tụng kinh một ngày tám chín ngàn lời, nghiên cứu Phương đẳng diệu nhập u vi. Sách vở ngoại điển phần nhiều đều nắm bắt. Ngài ở Trường An lập ra một ngôi tịnh xá, lấy việc thuyết giảng làm sự nghiệp. Tăng tục theo học có cả ngàn người. Cuối đời Tấn Tuệ đế quan thái tuể Hà giang là Vương Ngung đến trấn thủ ở Quan Trung rất đem lòng kính trọng Ngài, đãi như thầy bạn, mỗi khi rãnh rỗi thường tìm đến cùng đàm giảng đạo đức, bấy giờ Tây phủ mới kiến lập về sau lại rất thạnh. Có thể nói kẻ sĩ, đều phục nơi viễn đạt, Pháp Tổ thấy quần hùng có thể xảy ra giao chiến, chí muốn lánh thân vào Lũng Thạch để bảo tồn nhã tháo. Gặp lúc Trương Phủ là Thứ sử ở Tần Châu đến trấn ở Lũng Thượng, nên Tổ cùng đi chung.
Trương Phủ thấy danh đức của Người ai cũng trọng vọng quy về, nên muốn bảo Ngài hoàn tục về làm bạn đồng liêu. Tổ quyết chí không dời do đó mà kết oán. Ở châu cũng có Quan Thẩm cùng luận nghị với Tổ bị thua. Thẩm rất xấu hổ và giận. Khi Tổ đến Hình huyện thì chợt nói với đạo nhân và đệ tử rằng: Ta vài ngày nữa trả túc nghiệp oán đối. Sau đó từ biệt mọi người. Ðem sách và kinh tượng phân bố ra cùng tài vật đều cho hết. Sáng sớm Ngài đến chỗ Trương Phủ cùng nói chuyện. Chợt có lời trái với Phủ nên bị bắt lại để hành tội. Mọi người đều kinh ngạc. Tổ nói: "Ta đến đây là để trả túc nghiệp, Ðây là việc đời trước chẳng phải bây giờ". Nói xong Ngài niệm Thập phương Phật. Vì tội duyên kíêp trước nên hoan hỷ trả, nguyện từ đây về sau cùng Phủ làm thiện tri thức, không bị tội giết người.
Ngài bị trị phạt năm mươi roi sau đó thì mạng chung. Trương Phủ nghe điều này rất lấy làm ân hận.
Ðầu tiên Pháp Tổ hoằng hoá ở Quan lũng ở vùng núi Hào, người tôn phụng như thần. Binh Tấn náo động, người đi đường đều rơi lệ. Quân Khương Nhung ở Lũng Thượng đem năm ngàn tinh binh muốn đón Ngài về Tây, giữa đường nghe tin Ngài bị hại, khóc hận không cùng, chúng đều thương tiếc phẩn hận muốn báo thù cho Tổ. Trương Phủ đem quân lên Lũng Thượng. Khương Hồ độc xuất kỵ binh nghinh chiến. Bấy giờ môn hạ tức giận liền chém Phủ. Quân Hồ thấy vậy cho là đã rửa được hận rồi kéo binh về, cùng phân xá-lợi của Tổ và xây tháp cúng dường. Trương Phủ tự là Thế Vĩ, người Nam Dương, là hậu duệ của Trương Vệ. Tuy có tài nhưng lại tàn ác không rõ lý. Vì giết Thiên Thuỷ là Thái thú Phong Thượng làm cho bá tánh nghi hãi nhơn đó làm loạn mà giết Phủ. Quản Thẩm sau đó cũng chết. Ít lâu sau đó có một người họ Lý tên Thông, chết đi sống lại và nói:
- Thấy Tổ Pháp sư ở chỗ Diêm-la vương đang giảng kinh Lăng Nghiêm và nói: Giảng xong kinh này sẽ lên cung trời Ðao-lợi, lại thấy Thái Tửu Vương Phù đến tổ cầu xin Sám hối.
Xưa Tổ thường ngày cùng với Phù tranh luận về tà chánh luận, bị thua nên sân giận không nhẫn được mới làm ra kinh “Lão tử hoá Hồ” để huỷ báng Phật pháp. Vì gây ra tai ương đó nên chết, đi nay mới suy nghĩ hối hận.
Tôn Trác viết Ðạo Hiền luận cho Pháp Tổ là Thất Kế Khang, luận rằng: Bạch Tổ gây thù với Quản Thẩm, ở trong thì tác hoạ đối với Chung Hội. Hai vị cũng vì khí tài hoa, mê muội nơi thân, đem tâm để ngoài kinh nên chiêu lấy hoạ ở đời thật không khác vậy. Chỗ thấy xưng như thế. Tổ là người bác thiệp đa nhàn, thông cả ngôn ngữ Phạm và Hán thường dịch các bộ kinh như “ Duy kiếp, đệ tử bổn khởi và Ngũ bộ tăng…lại chú giải kinh Thủ-lăng-nghiệm, lại dịch riêng vài bộ về kinh tiểu thừa, gặp lúc loạn lạc nên không còn.
Pháp Tạc là sư đệ của Pháp Tổ, tuổi nhỏ cũng có tiếng tăm, học thông hiểu rộng. Năm hai mươi lăm tuổi thì xuất gia, thâm nhập Phật lý. Ở Quan Lũng đều biết danh. Bấy giờ Thứ sử Lương Châu là Trương Quang. Vì anh Tạc không chịu làm phản mà bị giết. Trương Quang lại bức bách Pháp Tạc bỏ Ðạo. Tạc giữ chí kiên cố không chịu nghe nên bị Quang hại, năm đó Ngài năm mươi bảy tuổi. Ngài chú thích bộ Phóng Quang kinh, Bát-nhã và trước tác bộ Hiển tông luận …Trương Quang tự là Cảnh Vũ người Giang Hạ, sau bị địch vây, phát giận mà chết, bấy giờ là đời Tấn Tuệ.
Lại có Ưu-bà-tắc tên là Vệ Sĩ Ðộ, dịch ra hai bộ kinh: Ðạo Hạnh, Bát-nhã. Sĩ Ðộ vốn là ngươi Ti châu, Hấp quận, ông sống đời ẩn dật an bần thủ đạo. Tâm chỉ nghĩ đến Phật đạo. Khi gần tịch thì tắm rửa súc miệng sạch sẽ, tụng hơn một ngàn lời, sau đó cởi y ngồi an nhiên thị tịch.
|