TS Huyền Sướng

Personal Information

Danh Tánh
TS Huyền Sướng
Gender ♂️ Male

Hành Trạng

Additional Info

Huyền Sướng: Ngài họ Triệu người Kim Thành, Hà Tây. Thuở nhỏ gia đình Ngài bị Hồ Lỗ chém giết, tai hoạ sắp ập đến Ngài, chủ soái của Lỗ thấy Huyền Sướng mà dừng lại nói với ông rằng: Cậu bé này ánh mắt sắc bén như bậc phi phàm. Nên Ngài khỏi mắc hoạ. Sau đó Ngài đến Lương châu Xuất Gia. Pháp danh đầu tiên là Tuệ trí. Sau đó gặp Ngài Huyền Cao và thờ Ngài làm thầy.

Huyền Cao rất mến trọng Ngài nên có Pháp sự gì cũng thảo luận với Ngài. Nhân đó mà đổi tên là Huyền Sướng, để biểu thị ý chỉ phó chúc. Sau này bọn rợ địch bạo ngược huỷ diệt Phật Pháp. Chỉ có Ngài Huyền Sướng được thoát khỏi.

Vào ngày 17 tháng 5 nhuận năm 22 Nguyên Gia. Bắt đầu từ Bình Thành, đường men theo Đại quận, Thựơng Cốc, từ miền Đông vượt qua Thái Hành, đường đi qua U Ký. Từ miền Nam đi dần lên Mạnh Tân. Tay chỉ cành mầm một cành dương và một cọng lá hành. Hồ Lỗ cỡi ngựa theo sắp kịp Ngài. Ngài bèn lấy cành dương chọc xuống cát, cát tung lên tối trời, thế là cả người lẫn ngựa không thể chạy được.

Chốc lát cát hết thì Hô Tỗ cỡi ngựa đi nữa. Ngài bèn nhảy xuống sông chỉ lấy cọng hành đút vào mũi để thở và lội qua sông. Vào mùng 1 tháng 8 Ngài đến Dương châu. Thấu suốt Kinh luật, thâm nhập thiền yếu. Chiêm bói kiết hung đều thật linh nghiệm. Ngài còn thông thạo mọi Kinh Điển của Khổng tử. Những tuyệt kỹ ở thế gian thật hiếm có điều nào Ngài không biết.

Ban đầu đại bộ Hoa Nghiêm văn nghĩa dài dòng rộng nhiều bởi từ xưa đến nay chưa ai diễn giải cho cô động. Ngài Huyền Sướng bèn dốc lòng nghiên tầm để trình bày rõ ràng từng chương, so sánh câu rồi chuyền giảng cho đến nay, mà người đầu tiên là Ngài Huyền Sướng vậy.

Ngài còn rất giỏi về Tam luận, được học giả tôn sùng. Tống Văn Đế càng tỏ ra tôn trọng sâu sắc hơn, thỉnh Ngài làm thầy cho thái tử.

Ngài từ chối đôi ba lần, đệ tử Ngài nói:

- Điều mà Pháp Sư muốn là hoằng đạo, cứu người, rộng tuyên danh giáo. Nay Đế Vương đã quên mình mà thỉnh cầu, Hoàng Thượng tích chứa lễ nghĩa trong tâm, nếu đạo được xiển dương, thánh được ân sủng thì khắp nơi quay về nương đức độ. Nay tướng Kiểu Nhiên Cao Hộ chẳng phải Thanh văn sao.

Ngài Huyền Sướng nói:

- Điều này có thể nói với người trí chứ không nói với kẻ phàm phu. Đến niên hiệu Thái Sơ xảy ra chuyện thì mới biết bậc tiên giác vốn như vậy. Ngài bèn dời về ở Kinh Châu trong Chùa Trường Sa.

Bấy giờ Sa Môn Công Đức cho xuất bản ngay bản Kinh Niệm Phật Tam Muội. Ngài Huyền Sướng chỉnh sửa lại văn tự, nghĩa từ cho lưu loát. Ngài duỗi tay thì có mùi thơm bay ra, trong bàn tay có nước chảy ra nữa, chẳng ai đoán nổi. Cho đến năm cuối đời nhà Tống, Ngài bèn cưỡi thuyền vượt muôn ngàn đặm đến thành đô.

Lúc đầu ở Chùa Đại Thạch, rồi vẽ mười sáu tượng thần như Kim Cương, Mật tích v.v… Đến niên hiệu Thăng Minh thứ ba Ngài lại về phương Tây chiêm ngưỡng Mân Lĩnh. Rồi đến huyện Quảng Dương miền bắc quận Mân Sơn để xem núi Tề Hậu.

Và bèn có ý muốn ở lại đó đến cuối đời. Thế là Ngài bèn tựa vào vách núi kết cỏ làm am. Đệ tử Pháp Kỳ thấy vị thần cỡi ngựa mặc áo đơn màu xanh, đi vòng núi một bận rồi trở lại chỉ chỗ để xây tháp. Vào ngày 23 tháng năm đầu Kiến Nguyên nhà Tề, Ngài xây dựng Chùa đặt tên là Tề Hưng.

Chính là Tề Thái Tổ nhận được thần tích mạng. Người thời ấy cho rằng sự việc vạn dặm huyền hợp. Khi ấy Phó Đàm Tây trấn thủ Thành đô kính trọng phong cách đạo đức của Ngài, tiếp đãi kính trọng như thầy.

Sau khi Ngài Huyền Sướng xây Chùa, Ngài bèn gởi thư đến nói với Đàm rằng: Bần đạo ở Kinh Châu nhiều năm suy yếu, bệnh sởi phát khởi hoành hành làm chết nhiều người. Cho nên từ nơi xa xôi đến nương xứ Mân Sơn để chọn mảnh đất này. Ơ miền đông Quảng dương cách Kinh thành ngàn dặm.

Băng ngàn vượt núi quanh năm suốt tháng, từng dãy núi điệp điệp trùng trùng, thương nước nhớ thành vọng về tam phương. Băng núi trèo đèo vượt qua khắp nơi ngắm nhìn cửu lưu. Vào ngày 23 tháng 2 năm ngoái khởi công thật nhiều. Mùa đông năm trước đến nay tìm kiếm được ngày này, chính là giờ thìn Long phi của Bệ Hạ.

Từng nghe: Đạo phối hợp với thái cực thì điềm lành tự hiển hiện. Đức đồng với nhị nghi thì thần ứng ắt tỏ lộ. Cho nên ở Hà Lạc sáng rực điềm nhà Chu. Linh Thạch biểu trưng điềm nhà Đại Tấn. An phục những điều linh nghiệm trong núi này.

Há chẳng phải điềm linh ứng của vua Tề sao. Tấm lòng Đàn việt phụng thờ đất nước thật sâu xa, cho dù thời thế đổi thay cũng không thể nào quên được, đâu thể bỏ xót việc lơ là núi non. Khen ngợi một phen để tỏ lòng của ngu bào.

Tán rằng: Núi Nga Mi ở Tề. To lớn lại thâm u. An tàng điềm lành bao đời, đế hiệu vẫn sáng. Non sơn đội chữ thánh. Triệu làm vua hưu danh, núi đỡ vầng mây. Phong nhạc xa xăm. Quy nham nghĩ sát, băng qua phong lãnh để sáng lập Kinh, ngày khởi công.

Rồng bay lên tử đình, làm bạn với trời đất, bốn biển đều yên bình, trọn ngày an vui, đức cả biểu lộ, Phó Đàm liền thuật đủ lên vua. Vua sắc lệnh thưởng cho Ngài hưởng lộc trăm hộ. Vương Nghi ở Dự Chương là quan võ vua Tề trấn 38 nhậm Kinh Hiệp sai người đến nghinh thỉnh Ngài. Bang chủ Thổ Cốc Hồn ở Hà Nam đoái lòng kính mến, từ nơi xa xôi cỡi ngựa mấy trăm dặm đến Tề Sơn. Gặp lúc Ngài đi phó hội ở Ba Đông nên không gặp được.

Cho đến khi Tề Vũ lên ngôi, quan tư đồ Văn Tuyên Vương khải thỉnh Ngài từ Giang Lăng trở về Kinh Sư. Văn Tuệ thái tử lại sai người đến nghinh đón. Vua sắc lệnh nhiều lần, Ngài cố từ chối vẫn không khỏi. Bấy giờ du thuyền xuôi về đông. Giữa đường phát bệnh nên phải mang bệnh về Kinh. Chẳng bao lâu mọi chướng ngại tiêu tan.

Ngài ở tại Chùa Linh Căn một thời gian ngắn ngủi thì viên tịch. Thọ sáu mươi chín tuổi, vào nagỳ 16 tháng 11 niên hiệu Vĩnh Minh thứ hai nhà Tề. Sau đó an táng tại gò Chung phía trước núi Độc Long, Hiến Vương ở Lâm Xuyên lập bia. Chu Ngung ở Nhữ Nam chế văn.

Contact Information

Phone
Array
Address Array
This entry was posted in . Bookmark the permalink.