TS Huyền Cao

Personal Information

Danh Tánh
TS Huyền Cao
Gender ♂️ Male

Hành Trạng

Additional Info

Ngài họ Ngụy, tục danh Linh Dục, người ở Vạn Niên, Bằng Dực vậy. Mẹ Ngài họ Quan vốn là người sùng tín ngoại đạo. Lúc vừa về nhà họ Ngụy sinh một cô con gái đầu lòng tức chị hai của Ngài Huyền Cao. Khi cô này sinh ra lại tin đạo Phật. Cô chú nguyện cho mẹ, nguyện cho mẹ lại đừng tu tà đạo, trở lại phụng thờ đại pháp.

Vào năm thứ ba Hoằng Thỉ thời Vua Ngụy tần 1401 DL, bà mộng thấy một tăngrải hoa đầy nhà, tỉnh lại thì mang thai sư, đến mồng 8 tháng 2 năm thứ sanh một cậu con trai. Trong nhà tỏa mùi hương lạ, và ánh sáng chói trên tường, cả ngày mới hết. Mẹ Ngài nhân điều lành khi sinh con gọi là Linh Dục. Lúc ấy người người ai cũng yêu quí Ngài. Rồi lại đặt tên là thế Cao.

Năm lên mười hai tuổi thì biệt mẹ vào núi, nhưng bà không cho phép, một ngày nọ, có một thư sinh tá túc trong nhà Ngài, ông ta nói là ông muốn vào núi Trung Thường ở ẩn, cha mẹ Ngài bèn gởi Ngài cho vị thư sinh ấy. Đêm ấy cả nhà đều thấy người trong cả thôn đều làm lễ bái tổ tiễn Ngài. Sáng hôm sau họ đến thăm Ngài, cha mẹ nói, hôm qua các vị đã đến tiễn rồi mà nay lại đến nữa.

Họ nói:

- Chúng tôi đâu biết cậu bé đi thì làm sao mà nói tiễn rồi. Cha mẹ hiểu ra hôm qua người đến tiễn là thần vậy. Khi Ngài mới vào núi thì liền muốn Xuất Gia. Nhưng các vị tăng ở đó chưa cho phép, họ bảo rằng cha mẹ Ngài chưa cho phép thì không được Xuất Gia. Thế là Ngài đành phải quay về nhà khẩn cầu cha mẹ cho phép được Xuất Gia. Suốt cả hai mươi ngày mới được toại nguyện. Khi đã lánh tục lìa thế nên đặt tên là Huyền Cao. Ngài là người thông minh học đâu biết đó không cần suy nghĩ.

Năm lên mười lăm tuổi lại còn thuyết pháp cho các vị sơn tăng nghe. Khi thọ giới xong thì chuyên tinh nghiên cứu thiền luật. Sau nghe tin ở Quan Trung có Thiền Sư Phù đà Bạt Đà ở Chùa Thạch Dương hoằng pháp. Ngài đến tham bái sư. Chỉ trong mười ngày thì thông thạo thiền pháp.

Thiền Sư Bạt Đà khen rằng:

- Lành thay Phật tử, có thể thông đạt như vậy.

Vì khiêm nhường không chịu nhận sự lễ lạy như bậc thầy nên Ngài đành phải chống tích trượng sang Tây Tần ẩn cư trong núi Mạch Tích. Học nhơn trong núi hơn cả trăm vị, đều tôn Ngài làm thầy và theo thọ học Phật Pháp. Khi ấy có Sa Môn Đàm Hoằng người Trường An là vị cao tăng đang ẩn cư ở núi này, hai vị gặp nhau, vì cùng tư tưởng nên kết làm bạn thân. Lúc ấy Khất phật Sí bàn có đường đi qua Lũng Tây. Tây tiếp với đất Lương.

Có Thiền Sư ngoại quốc hiệu Đàm Vô Tỳ vân du sang nước này. Thu nạp đồ chúng và dạy thiền đạo. Tam muội chánh thọ đã sâu sắc lại mầu nhiệm. Các vị Tăng ở Lũng Tây bẩm thọ những tinh túy của pháp thiền Huyền Cao cũng tự dẫn đồ chúng đến đó thọ pháp.

Trong khoảng mười ngày thì Ngài Vô Tỳ bèn tham vấn ý chí của Ngài. Lúc đó, ở Hà Nam có hai vị Tăng. Tuy hình dáng là Sa Môn nhưng thật sự trá hình ngụy tạo. Mặc tình buông lung trái phạm luật, đố kỵ với học tăng. Ngài Đàm Vô Tỳ từ Lũng Tây trở về Xá di.

Hai vị tăng ấy đến chỗ vương thế Tử Man ở Hà Nam sàm báng Huyền Cao, nói rằng việc thu nạp đồ chúng đông là mối họa của đất nước. Thái Tử Man tin những lời sàm báng đó nên muốn trừ khử Ngài Huyền Cao, nhưng cha ông không cho phép. Bèn đuổi Ngài đến núi Đường xứ Lâm Dương tỉnh Hà Bắc.

Ngọn núi này các bô lão đời xưa truyền nhau rằng: Là chốn tụ hội của chư tiên.

Huyền Cao dẫn ba trăm đồ chúng đến ở núi này. Tinh thần an định, thiền tuệ ngày càng tăng tiến. Nhờ tâm chí thành tha thiết nên thầm cảm ứng đến rất nhiều điềm linh dị. Khánh không đánh mà tự kêu. Hương cũng tự nhiên tỏa hương bốc khói. Tiên sĩ ứng chân thường tới lui du ngoạn. Thú dữ cũng hàng phục, trùng độc cũng tiêu trừ. Trong những vị học trò thông thạo lục môn của Ngài có hơn cả trăm.

Có vị tên Huyền Thiệu là người Lũng Tây, Tần châu, thấu đạt các pháp thiền thần lực tự tại, chính tay ông hóa ra nước dâng cho Ngài Huyền Cao xúc miệng, rửa mặt, nước ấy thơm sạch gấp bội nước thường. Thường tạo ra những hương thơm tuyệt hảo để dâng cúng Tam Bảo.

Những vị đạt được thần lực vi diệu như Huyền Thiệu có mười một vị. Sau đó Ngài Huyền Thiệu vào núi Đường Thuật thiền duyệt rồi mất. Ngày xưa Pháp Sư Đàm Hoằng ở Trường An đến trú ở Mân Thục hoằng đạo rất thịnh hành chốn thành đô.

Hà Nam Vương biết đến uy danh của Ngài nên sai sứ đến đón về nhưng Ngài biết chuyện Ngài Cao bị đuổi nên muốn đến đó để làm sáng tỏ chuyện này. Vì thế không ngại đường xá hiểm trở, núi non gập ghềnh, khi Ngài đến Hà Nam. Khách chủ thăm hỏi nhau xong.

Ngài bèn hỏi Vương rằng:

- Ngài là bậc cao minh cớ sao tin tưởng những lời sàm báng bỏ đi bậc hiền tài. Bần đạo sở dĩ không ngại đường xa ngoài ngàn dặm lặn lội đến đây chính là vì muốn bày tỏ những điều này.

Vua và thái tử ái ngại và hổ thẹn, bèn sai sứ đến chỗ Ngài Huyền Cao bằng những lời lẽ nhã nhặn khiêm tốn thỉnh Ngài về Kinh. Ngài vì muốn cứu độ muôn loài quên đi những hận xưa, lúc mới khởi ý xuống núi, đột nhiên cây cối trong núi ngã gãy, đá nghiêng đổ bít lắp con đường.

Ngài chú nguyện rằng:

- Tôi thệ phải hoằng hóa đạo cả, sao làm cản trở lối đi, lúc đó gió ngừng đường xá hiện ra.

Ngài đi lần về đến Kinh đô. Vua và thần dân gần đó cùng nhau ra nghinh đón. Đời đạo đều kính ngưỡng và tôn Ngài làm quốc sư. Khi nhân duyên hóa độ ở Hà Nam đã mãn. Ngài lên đường đến đất Lương. Thư Cừ, Mông Tốn hết lòng kính trọng và cúng dường Ngài, đồng thời hội tụ những bậc anh tài phát khởi những thắng giải từ nơi Ngài. Lúc đó ở Tây Hải có Phiên Tăng An cũng theo Ngài thọ học. Có kẻ trí hẹp tài kém được chút ít cho là đủ cho rằng mình đã đạt quả La hán, thấu tột thiền cơ. Ngài liền âm thầm dùng thần lực khiến cho ông từ trong định thấy rõ chư Phật trong mười phương thế giới nói pháp khác nhau.

Trong một mùa hạ ông mới nhận rõ cái thấy của mình không bao giờ thấu tột hết, mới biết nước định không ngằn mé nên sinh lòng hổ thẹn. Lúc đó Ngụy Lỗ Thác Bạt Đảo Tiềm xưng ở Bình Thành, khởi quân xâm chiếm đất Lương. Cậu của Đảo là Dương Bình Vương Đỗ Siêu thỉnh Ngài Huyền Cao về Ngụy đô. Khi đi đến Bình Thành rồi Ngài Hoằng thuyết giáo pháp. Thái tử Thác Bạt Hỏang thờ Ngài Huyền Cao làm thầy.

Thái tử lúc bị cha nghi ngờ nên thuật với Huyền Cao rằng:

- Khi không vướng lấy oan ức làm sao để thoát nạn?

Ngài chỉ cho thái tử lập đàn chay Kim Quang Minh trì trai bảy ngày để sám hối.

Đảo đêm nọ mộng thấy ông nội và cha mình cầm kiếm đến thị oai hỏi:

- Tại sao ngươi tin lời sàm báng nghi oan cho thái tử.

Đảo giật mình thức giấc tập hợp Quần Thần hỏi về điềm trong mộng.

Quần Thần đều nói:

- Thái tử không có lỗi, thật đúng như Hoàng linh hiện báo,

Đảo không còn nghi ngờ thái tử nữa, chính là nhờ công lực thành khẩn của Cao vậy. Đảo nhân đó hạ chiếu chỉ rằng: Trẫm phụng thừa nếp đạo của tổ tông mà muốn xiển dương nền móng to lớn, khôi phục phát huy muôn đời. Công sức của Võ tuy rạng mà đại giáo chưa lưu thông thì chẳng thể nói đến việc đề cao thái bình thịnh trị. Nay đất nước bình yên no ấm, nên phải đặt ra pháp chế để làm chuẩn cho vạn thế. Bởi âm dương có tuần hòan, bốn mùa có thay đổi.

Bảo con:

- Phải tin nhậm bậc hiền để làm người giao phó, khiến cho ngưng mọi sự mệt mỏi, kiểu cách bền vững lâu dài. Xưa nay lệnh điển khó đổi. Các công thần của Trẫm đã vất vả nhiều ngày. Nay muốn mời họ về an nghỉ thỏai mái. Không cần đảm nhiệm những việc đau khổ.

Ông ra lệnh bảo Hoàng thái tử giao phó Lý Vạn Cơ thống lãnh muôn dân. Còn đề cử bậc hiền tài bổ nhận chức vụ. Tuyển chọn người tài và cách chức bọn tham ô.

Cho nên Khổng tử nói: Hậu sinh khả úy. Sao biết người xưa không bằng người nay. Thế là cả triều đình từ quan quân đến muôn dân đều xưng thần với thái tử. Dâng thư như lời trần tình, dâng giấy trắng để phân biệt.

Lúc ấy Thôi Hạo, quan Thiên sư trước kia được ân sủng của Đảo, sợ Hoảng lên nối vị thì sẽ đoạt đi quyền uy của mình bèn đàm tấu:

- Việc xưa của thái tử thật có mưu tâm. Nhưng nhờ đạo thuật của Huyền Cao nên khiến tiên đế giáng mộng. Sự tích vật luận như vậy hiển lộ ra nếu không diệt trừ, ắt sẽ làm mối họa lớn.

Đảo liền tiếp nhận và đột nhiên nỗi giận. Bèn ra lệnh bắt Huyền Cao.

Trước đây Ngài đã từng thầm nói với đệ tử rằng:

- Phật Pháp sẽ suy vi. Ta và Sùng công từng gây họa cho ông ta vào đời trước.

Bấy giờ người nghe ai nấy đều buồn bã. Lúc ấy có Sa Môn Thích Tuệ Sùng ở Lương châu là bậc thầy của thượng thư Hàn Vạn Đức nhà Ngụy. Oai đức ấy cũng tầm cỡ với Ngài Huyền Cao và cũng bị nhiều chướng ngại trong việc hoằng đạo.

Đến tháng 9 năm thứ năm niên hiệu Thái Bình. Huyền Cao và Sùng công đều bị giam cầm, vào ngày 15 tháng đó thì bệnh mất ở ngoại ô phía đông thành Bình. Thọ bốn mươi ba tuổi, năm ấy đúng năm 21 Nguyên hy nhà Tống. Lúc đó môn nhân của Ngài không ai biết. Nhưng vào canh ba đêm ấy chợt thấy hào quang nhiểu quay ba vòng chỗ trước đây Ngài ở rồi thu vào thiền thất.

Nhân đó nghe trong hào quang có tiếng nói rằng:

- Ta đã tịch rồi

Các vị đệ tử mới biết Ngài đã tịch, vô cùng đau xót chẳng bao lâu sau thỉnh thi hài của thầy về vùng đất trống ở phía Nam thành, tắm rửa sạch sẽ rồi tẩm liệm đồng thời xây tháp chôn Ngài Sùng công ở một chỗ khác. Đạo tục cả Kinh đô vô cùng thương tiếc. Đệ tử Huyền Sướng lúc đó ở Vân Trung cách Ngụy quận sáu trăm dặm.

Một hôm trông thấy một người bảo với Ngài rằng:

- Có sự biến.

Rồi cấp cho Ngài một cổ ngựa chạy năm trăm dặm. Thế là Ngài quất ngựa ra đi, khoảng mờ tối thì đến Kinh đô, mới hiểu rằng thầy đã tịch, lòng vô cùng đau xót.

Nhân cùng ngồi khóc với bạn đồng môn rằng:

- Pháp nay đã diệt lại còn phục hưng chi bằng thoát thân này thì càng hưng thịnh. Thỉnh Hòa Thượng ngồi dậy, đức của thầy siêu việt hơn người thường, ắt sẽ chiếu sáng vậy.

Nói xong thì hai mắt Ngài hé mở, ánh mắt vẫn còn tươi nhuận, thân toát mồ hôi, nhưng rất thơm, chốc lát Hòa Thượng ngồi dậy bảo đệ tử rằng:

- Đại pháp ứng hóa tùy theo duyên mà có thạnh suy. Thạnh suy ở nơi sự, còn đối với lý thì xưa nay vẫn như vậy. 'Nhưng nghĩ đến các ông không lâu nữa cũng giống ta thôi, chỉ có Huyền Sướng nên về phương Nam hóa độ. Sau khi các ông mất rồi pháp sẽ được hưng thịnh lại, hãy khéo tu tâm mình đừng nửa đường thối lui. Nói xong thì nằm xuống mà tịch. Hôm sau định đem linh cữu Ngài nhập tháp nhưng phép nước không cho, đành phải xây mộ an táng. Đạo tục đau buồn khóc không ngớt.

Lúc đó có Sa Môn Pháp Đạt làm chức Tăng chánh ở Ngụy quốc, hâm mộ tài đức của Ngài đã lâu nhưng chưa đến thỉnh giáo được. Chợt nghe tin Ngài đã tịch vì thế mà than khóc nói:

- Thánh nhân tạ thế rồi ta biết nương tựa vào ai, nhiều ngày bỏ ăn uống và luôn gọi thánh nhân cao thượng tự tại sao không hiện một lần. Ứng theo âm thanh ấy thấy Ngài lướt mây đến. Phát Đạt đảnh lể cầu ai mong được cứu độ.

Ngài nói:

- Nghiệp ông nặng khó cứu. 'Ông nói thế phải làm gì?

Ngài nói:

- Từ đây trở đi phải chịu khó nương Kinh Phương Đẳng siêng năng sám hối thì sẽ được nhẹ nhàng.

Đạt nói:

- Thoát được báo khổ nguyện thấy việc xót thương cứu giúp.

Cao nói:

- Không quên tất cả thà rằng ở một mình ông.

Đạt lại nói:

- Pháp Sư cùng với Sùng công thác sinh chốn nào.

Ngài Cao nói:

- Ta nguyện sinh vào cõi ác này cứu giúp chúng sinh nên sinh vào cõi Diêm phù đề. Còn Sùng công thường cầu An Dưỡng nên nguyện đã theo tâm rồi vậy,

Pháp Đạt lại hỏi:

- Không rõ Pháp Sư đã chứng địa nào.

Ngài nói:

- Các đệ tử của ta tự biết.

Nói xong biến mất, Pháp Đạt âm thầm đến dò hỏi các vị đệ tử của Ngài họ đều nói:

- Đắc nhẫn Bồ tát.

Đến năm Thái bình thứ bảy nhà Ngụy. Thác Bạc Đảo quả đúng là hủy diệt Phật Pháp, giống như lời Ngài Huyền Cao nói. Lúc đó Thư Cừ ở Hà Tây là người tài giỏi đồng thời có vị Sa Môn tên Đàm Diệu cũng rất giỏi thiền học, Ngụy thái phó Trương Đàm kính phục như thầy.

Contact Information

Phone
Array
Address Array
This entry was posted in . Bookmark the permalink.