Personal Information
Danh Tánh
|
0-TS Nam An Nham Tự Nghiêm
|
|
Gender | ♂️ Male |
Hành Trạng
Additional Info
1. Thiền sư Tự Nghiêm ở Nam an nham. Thiền sư Tự Nghiêm ở Nam an nham, vốn dòng họ Trịnh người xứ Ðồng an, Tuyền châu. Năm mười một tuổi, Sư bỏ nhà đến nương tựa Sa-môn Khế Duyên ở chùa Ngọa tượng tại Kiến hưng làm Ðồng tử. Ðến năm mười bảy tuổi, Sư làm đại Tăng, bèn du phương đến yết kiến Thiền sư Kỳ Túc Khoát ở Tây phong. Thiền sư Khoát là đệ tử cao túc của Thiền sư Minh ở lương; là cháu của Vân Môn. Hoàng đế Thái tông (?) thường ban chiếu mời đến cung quyết, thiết đặt quán tại trong Ngự viên xá để hành tập Thiền định, lâu sau xin trở về lại núi. Sư nương tựa ở đó năm năm, kín hợp tâm pháp, sau đó giả từ, vượt qua sông Hoài nhân. Ở đó có con Giao lớn thường làm hại người qua lại, Sư bèn vì nói kệ răn dạy mà con Giao ấy bèn bỏ đi. Qua đến mỏm núi Hoàng dương, khát nước muốn uống lại gặp khe suối khô cạn, Sư bèn dùng gậy rõ vào đó mà dòng nước tuôn trào, các hàng phụ lão đều nhóm tụ trông xem, hợp trảo cho là Thần, Sư bèn bỏ trốn đi, khắp xứ Võ-Bình NamHoàng thạch-nham có lắm nhiều rằn hổ, Sư đến dừng ở đó mà rắn hổ đều trở thành kẻ sai khiến được. Mọi người ở khắp bốn phương xa nghe thế thảy đều rất kinh sợ, đua nhau cung kính tôn thờ. Dân chúng vì trời mưa tạnh, người nam kẻ nữ cầu đảo đều tùy theo điều muốn ứng với tâm niệm mà được, mọi nhà họa vẽ hình tượng của Sư, mỗi lúc uống ăn thảy đều dâng cúng. Ở gần chùa có vị Tăng thị tịch, Sư không biết theo luật pháp phải báo lên Quan, bèn tự cử hành lễ thiêu đốt, các Quan lại đòi bắt đưa về trong sân tra hỏi cung trạng, Sư không đối đáp gì chỉ đòi đưa giấy và viết kệ rằng: “Ngoài mây, Tăng quê chết Ngoài mây, Tăng quê thiêu Hai pháp không sai trái Ðương Bồ-đề chẳng xa”. Nét chữ viết hiểm hóc cứng rắn như đường nét Ðại Triệu, Quan lại rấttức giận, cho là cuồng lại man. Ðã cách lìa y Tăng-già-lê hong phơi nửa ngày, đến lúc đã được phóng thích, Sư đem khăn vải quấn trên đầu và mặc y phục sắc trắng. Sư hận các pháp Sư giảng nói, người nghe một nửa số người tin một nửa số người nghi. Nhân đó Sư im lặng suốt sáu năm. Chùa Nham đang thâu vải bố mà dân chúng theo năm chặt thâu lấy. Sư không nhẫn chịu nỗi, bèn viết thư buộc trong vải bố xin được miễn. Quan lại nhận được thư ấy tức giận, đòi đến hỏi, Sư cũng không đáp, Quan lại cho Sư là yêu quái, bảo người thiêu đốt khăn vải bố ấy, lửa cháy hết mà khăn càng mới sạch, Sư mới đòi đưa giấy viết kệ rằng: “Hết thảy sức từ nhẫn Ðều tâm tôi phát sinh Vua Quan khổ bó buộc Phật pháp chẳng lưu hành”. Từ đó về sau, Sư hơi mở miệng nói. Sau đó, Sư đến núi Bàn cổ ở Nam phương, nguyên trước kia Tôn giả Bà-lợi người Tây trúc mới đầu đến đó có lời sấm rằng: “Sau này sẽ có vị Bồ-tát mặc y phục sắc trắng đến dấy khởi tại núi ấy”. Sư ở tại đó ba năm mà thành chốn Tùng lâm, Sư mới trở về lại Nam an, tại Giang nam có chiếc bè dừng ngủ làm cản trở các thuyền đi, thuyền Sư ngang qua đó, Sư xoa sờ vỗ về mà bảo: “Ði! Ði!” Chớ nên làm hại người. Có vị Tăng từ Huệ châu đến nói rằng: “Ở Hà nguyên có chiếc thuyền lớn cắm nơi cát, cả muôn con trâu kéo không lay động, xin Sư được dùng chở gạch đến xây dựng tháp ở Nam hải vì chúng sinh mà làm ruộng phước”. Sư bảo: “Ðó là vật của âm phủ, nhưng trao cho ngươi bài kệ rằng: “Trời mưa nước Bá sinh Thuyền vua âm phủ dời Chớ đứng lâu trong cát Nhận phước ân Bồ-đề”. Vị Tăng ấy đến nơi thuyền xướng đọc bài kệ, thuyền đó bèn chuyển động, muôn người đều hoan hô. Ðến Ngũ dương có Thương khách lớn theo để chở, vị Tăng ấy hứa cho, vừa mới mở dây neo bỗng chốc gió thổi thuyền biến mất. Có vị Sa-di không có trí tánh Ða văn, nhưng hầu thầy rất cẩn mật, Sư xót thương đó, nên làm bài kệ bảo chuyên đọc tụng, lâu sau sẽ thông minh. Bài kệ ấy là: “Ðại trí phát từ tâm Nhưng Tâm tìm xứ nào Thành tựu Nhất thiết nghĩa Không xưa cũng không nay”. Từ đó, đối với các thứ văn tự ngữ ngôn ở thế gian, vị Sa-di ấy chỉ một lần đọc xem thì đều không quên sót, làm kệ tụng nói năng chương cú viện dẫn bút lập thành. Sư chỉ dạy cho người, phần nhiều hay dùng bằng kệ tụng, nhưng trong đề tặng có bốn chữ ở sau, không một ai biết được ý chỉ nó như thế nào, vết tích kỳ lạ lắm hiển trước. Các Quan sở thuộc viết trạng văn tấu trình, có chiếu vời gọi Sư đến, Tể tướng vương Khâm trọng Sư như Ðại Tham, An Triệu Nhân trở xuống đều kính tặng thơ kệ lên Sư, Sư chưa từng xem đọc, đặt thừa trên bụi mà thôi. Ðến ngày mồng sáu tháng giêng năm Ất mão (?) thuộc niên hiệu Thuần Hóa (?), Sư nhóm tập đại chúng mà dạy rằng: “Ngay nay tôi sinh, nay chẳng phải lúc”. Rồi bèn nằm nghiêng mình phía hữu mà thị tịch. Sư được phong tặng thụy hiệu là “Ðịnh Quang Viên Ứng Thiền sư”. |
Contact Information
Phone
|
Array |
Address | Array |