TS Thủy Nguyệt Thông Giác

Personal Information

Danh Tánh
Tổ Thứ 73 - TS Thủy Nguyệt Thông Giác - Ðời Thứ 36 Tông Tào Động - Khai Tổ Dòng Tào Động Việt Nam
Gender ♂️ Male

Hành Trạng

Additional Info

Thiền Sư Thủy Nguyệt Thông Giác 
(1637 - 1704)

Thiền sư Thủy Nguyệt, húy Thông Giác tên là Đặng Giáp, sinh năm Đinh Sửu (1637), quê ở làng Thanh Triều, huyện Ngự Thiện (sau đổi lại là Hưng Nhân), phủ Tiên Hưng, trấn Sơn Nam. Lúc nhỏ theo học Nho giáo, đến 18 tuổi (1654) đậu Hương cống (cử nhân).
Năm 20 tuổi (1656), thấy cuộc đời biến đổi vô thường, đầy đau khổ, hiểu được lý đạo Phật nên từ bỏ việc học để ra làm quan, mà quyết chí vào chùa tu theo Phật đạo: Đến tu ở chùa trên núi Hùng Lĩnh (?), xã Hỗ Đội, huyện Thụy Anh (xứ Sơn Nam), tham học kinh sách và du phương tham vấn Phật pháp ở nhiều nơi nhưng vẫn chưa tìm được đường vào đạo.
Tháng 3 năm Giáp Thìn (1664), đời vua Lê Huyền Tông, sư Thủy Nguyệt cùng hai đệ tử lên đường sang Trung Quốc tìm thầy học đạo. Đường đi rừng núi khó khăn, nguy hiểm, lên đến Cao Bằng, một đệ tử bị bệnh và chết, sư chôn cất bên vệ đường và nguyện rằng: “Nay ngươi sức mỏi không thể theo ta được, tạm nghỉ nơi đây, chờ khi ta ngộ đạo trở về sẽ phổ độ cho ngươi”. Sư và một đệ tử còn lại tiếp tục lên đường, trèo đèo lội suối, vượt bao gian khổ nhưng sư vẫn bình tâm, một hôm cảm hứng ngâm:
Non nước với ta có nhân duyên
Hết lội suối rồi lại vượt non
Nước rửa bụi đường hết nhọc mệt
Núi nâng chân bước ngàn đạo cao.
Năm Ất Tỵ (1665), sư Thủy Nguyệt đến đất Châu Hồ, thăm viếng nhiều danh lam, tham vấn nhiều thiền sư, nhưng chưa hợp nhân duyên. Một hôm, sư đang nằm nghỉ trên tảng đá lớn trong khi vân du trên núi, bỗng nằm mộng thấy một ông lão thần sắc thanh sáng, trang nghiêm đến trước mặt ngâm bài kệ:
Điểu hoàng phong ba liễu miên man
Ly khảm gia phu hữu túc duyên,
Tảo thoát dục thanh vô thượng khúc
Đãng nhai đãng lễ yết tôn nhan.
Khi tỉnh dậy, sư Thủy Nguyệt bàn với đệ tử: trong câu mở đầu trên chữ “Phong” có chữ “Điểu” và chữ “Hoàng” tức là “Phụng hoàng”. Câu hai có hai chữ Ly và Khảm, “Ly” là Hỏa, thuộc về phương Nam”. “Khảm” là “thủy”, thuộc về phương Bắc, tức là Nam Bắc. Câu ba và bốn, có nghĩa là: Muốn nghe tiếng pháp vô thượng thì phải lên đảnh lễ, yết kiến bậc tôn túc ở trên núi cao. Đoán xong, hai thầy trò hỏi người địa phường đường đến núi Phụng hoàng, đi mất hơn 1 tháng mới đến núi này. Núi Phượng hoàng cao chót vót, chùa điện nguy nga giống như cảnh núi Linh Thứu nơi Đức Phật Thích Ca thuyết pháp khi xưa. Đến cổng chùa, sư Thủy Nguyệt viết họ tên và nơi ở trình vị Tăng gác cổng để xin vào yết kiến Hòa thượng trụ trì (nói không hiểu được, mà phải bút đàm, tức nói chuyện bằng cách viết chữ mới hiểu được). Sư và đệ tử phải xin ở nhờ ngoài cổng tam quan để học chữ Hán vào ban ngày, ban đêm tọa thiền, sau ba tháng, sư Thủy Nguyệt biết nói tiếng Trung Hoa. Ngày mùng một sau đó.,Sư xin yết kiến Hòa thượng viện chủ, vị Tăng gác cổng bảo sư viết bài biểu để trình lên Hòa thượng. Sư viết: ”... con trước đã theo thầy thụ nghiệp ở nước nhà, nhưng chưa hiểu rõ tông chỉ tinh vi uyên náo, cho nên, không ngại phải trèo đèo lội suối, trải qua ngàn dặm xa xôi, chỉ mong gặp được nhân duyên ngộ đạo, cúi mong đại Hòa thượng mở rộng thuyền từ, chở mọi người xa gần đều được qua khỏi sông mê...”.
Hòa thượng hỏi:
- Trước khi cha mẹ chưa sinh, cái gì là bản lai diện mục của ngươi?.
Sư thưa:
- Mặt trời sáng giữa hư không.
Hòa thượng nói:
- Ba mươi gậy, một gậy không tha.
Sư lại lễ, rồi cuốn chiếu.
Hòa thượng bảo:
- Cho ngươi nhập chúng, tùy theo chúng tham vấn.
Từ đó, ban ngày sư lo việc trong chùa, đêm thì tham học, nghiên cứu kinh điển, chí tâm tu học, không chút lơi lỏng. Hơn 1 năm sau, ngày mùng 8 tháng Tư năm Bính Ngọ (1666), sư được thọ giới Tỳ kheo.
Một hôm, Hòa thượng Tri Giáo hỏi sư Thủy Nguyệt:
- Chỗ an thân lập mệnh của ông là chỗ nào?.
Sư đáp:
- Trong gió lửa nổi dậy,
Trên sóng nước an nhiên.
Hòa thượng hỏi tiếp:
- Chuyện an thân lập mệnh như thế là được rồi, còn “bản lai diện mục” (mặt mũi xưa nay) của ông như thế nào?.
Sư đáp:
- Quơ sào trên bóng co,
Tên nhọn sẽ bay ra.
Hòa thượng khen:
- Con rắn hai đầu ấy, đừng để nó chạy thoát. Hãy xỏ mũi nó cẩn thận! Ngươi là con cháu xứng đáng của tông phái Tào Động. Ta cho ngươi pháp danh là Thông Giác.
Sau thời gian tu học ở núi Phụng Hoàng sáu năm (khoảng cuối năm 1670), một hôm, Hòa thượng Tri Giáo Nhất Cú gọi sư Thông Giác Thủy Nguyệt vào phương trượng hỏi:
- Đã thấy tánh chưa?.
Sư lễ bái và trình kệ:
Viên minh thường tại thái hư trung
Cương bị mê vân vọng khởi lung
Nhất đắc phong xuy vân tứ tán.
Hằng sa thế giới chiếu quang thông
Hòa thượng Thanh Từ dịch:
Sáng tròn thường ở giữa hư không
Bởi bị mây mê vọng khởi lòng
Một phen gió thổi mây tứ tán
Thế giới hà sa sáng chiếu thông.
Hòa thượng đưa tay điểm trên đầu sư và truyền cho bài kệ của Tông Tào Động để về truyền ở Đại Việt:
Tịnh Trí Thông Tông Từ Tánh Hải
Khoan Giác Đạo Sinh Quang Chánh Tâm
Mật Hạnh Nhân Đức Xưng Lương Huệ
Đẳng Phổ Chiếu Hoằng Pháp Vĩnh Trường.
Hòa thượng tặng cho bài kệ khi từ biệt:
Quế nham suy phúc tục truyền đăng
Thu nhập trường không quế bích đằng.
Trì nhĩ viễn lai khai bảo kính,
Từ dư qui khứ thị kim thằng,
Thụy thâm phượng lĩnh thiên tràng tuyết
Cáp thụ An Nam nhất cá tăng.
Dạ bán cẩm hà sơn hậu khởi,
Hao tùng thiên tế thức thăng hằng
Hòa thượng Thanh Từ dịch:
Rừng quế gương đưa đèn nối sáng
Thu về đâu đấy ngát mùi hương.
Vì người xa đến treo gường báu
Từ biệt ta về chỉ sợi vàng.
Ai vào núi Phượng nghìn trùng tuyết
Dường có An Nam một vị tăng.
Nửa đêm áo gấm ra sau núi
Như ở chân trời thấy mặt trăng.
Lễ tiễn biệt Thiền sư Thông Giác Thủy Nguyệt được đãi ba ngày mới xong, các thiện hữu làm thơ kỷ niệm, chia tay chúc tụng thật thắm thiết.
Thiền sư Thủy Nguyệt và đệ tử lên đường về nước, một hôm cảm hứng ngâm bài kệ:
Bắc lai trình dĩ hựu Nam lai
Nam Bắc song thanh sảng ngã hoài
Cước để yên hà tùy tiếu ngạo,
Mã hoàn trại thượng, xuất thiên nhai.
Hòa thượng Thanh Từ dịch:
Sang Bắc trình rồi lại về Nam.
Bắc Nam đều được thỏa thuê lòng
Cất bước yên hà càng vui thích,
Ngựa về chuồng cũ, vượt muôn trùng
Hai thầy trò đi suốt năm tháng mới về đến Cao Bằng, Thiền sư Thủy Nguyệt ghé thăm mộ của đệ tử đã mất lúc trước. Thầy trò dựng lều cỏ bên cạnh mộ, lập bàn Phật tụng kinh cầu siêu cho đệ tử được ba ngày thì bỗng nhiên trên mộ mọc một hoa sen. Bấy giờ, dân địa phương thấy điều lạ nên đua nhau đến xem rất đông. Nhiều người phát tâm thỉnh sư cúng đường trai phạn hoặc xin quy y thọ giới.
Một tháng sau, Thiền sư Thủy Nguyệt mới về đến chùa Tư Phúc (chùa Hun) ở núi Côn Sơn, thuộc trấn Hải Dương (nơi xưa Tổ Huyền Quang trụ trì, có thời gian Băng Hồ Trần Nguyên Đán và Nguyễn Trãi sống ở đó). Sau khi lễ Phật, nhìn cảnh rừng thông núi biếc và chùa cổ, Thiền sư Thủy Nguyệt nhớ đến Tổ thứ ba của phái thiền Trúc Lâm là Huyền Quang đã kế tục truyền tông phái thiền của Lục Tổ Huệ Năng nên ứng ngâm bài kệ:
Sơn thủy thanh hề, cảnh thắng hề
Nam thiên biệt chiếm nhất Tào Khê
Bất đồ tôn phụng tam thân Phật
Thăng hữu khôi nguyên thích trụ trì
Tạm dịch:
Nước biếc non xanh cảnh đẹp tươi
Tào Khê độc chiếm cõi trời Nam
Không chỉ tôn thờ tam thân Phật
Có một trạng nguyên đến trụ trì.Sau thời gian hoằng hóa ở Côn Sơn, Thiền sư Thủy Nguyệt vân du khắp các tùng lâm, tùy duyên thuyết pháp phổ độ chúng sinh.
- Chùa Vọng Lão trên núi Yên Tử (vùng núi của phái thiền Trúc Lâm thời Trần).
- Chùa Quỳnh Lâm: một tổ đình khác của phái thiền Trúc Lâm ngày xưa.
- Chùa Hạ Long (Hàm Long) ở núi Đông Sơn (huyện Đông Triều, trấn Hải Dương).
Khi đến núi Đông Sơn, chùa Thượng Long đã có 1 cao tăng là Tổ Muống đang trụ trì, nên Thiền sư hoằng hóa ở Hạ Long. Tuy nhiên, sư cũng thường lên đỉnh núi đàm đạo với Tổ Muống là tương ứng. Đồ chúng đến tham học ở chùa Hạ Long rất đông, tiếng đồn vang xa.
Một hôm, ngồi ở chùa thấy một con chim xanh bay đến, chợt ngộ, tự ngâm:
Xuân hoa khai liễu phục thu sương
Phù thế ninh năng đắc cừu trường
Tranh tự tiêu dao thiên ngoại thích
Càn khôn ư thử hữu hà phương.
Hòa thượng Thanh Từ dịch:
Hoa xuân nở hết lại sương thu
Phù thế cuộc đời khó bền lâu
Ra thẳng ngoài trời cho thỏa chí
Càn khôn nơi ấy có nơi đâu ?
Sau đó, Thiền sư Thủy Nguyệt lên Thượng Long nói với vị Tổ Muống: “Nay tuổi đã già, năm tháng dài lâu, đang thời thanh bình yên ổn, tôi muốn cùng thầy nhập Niết bàn”. Tổ Muống nói: “Đạo quả của huynh nay đã chín muồi, xin hãy về nghỉ ngơi trước, tôi còn phải ở lại cõi đời để độ những kể có duyên, đến khi đạo quả viên thành, tôi sẽ theo huynh cũng không muộn”.
Chiều hôm ấy, Thiền sư Thủy Nguyệt về chùa, cho gọi đệ tử Tông Diễn-Chơn Dung đến phó chúc cho bài kệ:
Thủy xuất đoan do tẩy thế trần,
Trần thanh thủy phục nhập nguyên chân
Dữ quân nhất bát cam lồ thủy
Bái tác ân ba độ vạn dân.
Hòa thượng Thanh Từ dịch:
Nước cốt tuôn ra rửa bụi trần
Sạch rồi nước lại trở về chân
Cho người bát nước cam lồ quý
Ân tưới chan hòa độ vạn dân.
Và bài kệ truyền pháp:
Sơn chức cẩm thủy họa đồ
Ngọc tuyền dũng xuất bạch đà tô
Ngạn thượng hoàng hoa oanh lộng ngữ
Ba trung bích thủy điệp quần hồ.
Nguyệt bạch đường đường ngư phủ túy
Nhật hồng cảnh cảnh kiển bà bô.
Hòa thượng Thanh Từ dịch:
Núi dệt gấm, nước vẽ hình
Suối ngọc chảy tuôn rượu đà tô
Bờ cúc nở hoa hoàng oanh hót,
Nước trong sóng biếc cá điệp nhào
Trăng sáng rõ ràng ông chài ngủ
Trời soi rừng rực kén nằm nhô.
Sau đó, thiền sư Thông Giác Thủy Nguyệt bảo bốn chúng rằng: “Nay ta lên viếng núi Nhẫm Dương, nếu bảy ngày không trở về, các ngươi lên núi, tìm thấy chỗ nào có mùi hương là ta ở đấy”. Đồ chúng bùi ngùi nhưng không dám theo. Đợi đúng bảy ngày không thấy sư trở về, đồ chúng lên núi Nhẫm Dương tìm kiếm, nghe gió thổi mùi hương thơm ngào ngạt, theo hướng tìm đến một cái hang, thấy sư ngồi kiết già trên tảng đá trong hang. Thân xác sư tươi mát mềm mại tự nhiên như người sống, mùi thơm xông ra giống hương trầm bạch đàn.
Thiền sư Thông Giác Thủy Nguyệt viên tịch vào ngày 6 tháng 3 năm Giáp Thìn (1704), niên hiệu Chánh Hòa thứ 20, đời vua Lê Hy Tông, thọ 68 tuổi. Đồ chúng làm lễ hỏa táng, chia xá lợi thờ ở hai nơi: một ở hang trên núi Nhẫm Dương (nơi viên tịch) và một ở chùa Hạ Long (Hàm Long) tại núi Đông Sơn (xã Bích Nham, huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh ngày nay).
Chùa Hàm Long hay Đông Sơn tự là chùa cổ được lập từ đời nhà Trần. Chùa Hàm Long có cảnh đẹp như Ngũ Đài sơn ở Trung Quốc. Chùa Đông Sơn thời xưa có Thiền sư Viên Quang là bậc đắc đạo, vua Trần Anh Tông và Trần Minh Tông tôn kính đặc biệt.

Contact Information

Phone
Array
Address Array
This entry was posted in . Bookmark the permalink.