0-TS Thiên Mục Văn Lễ

Personal Information

Danh Tánh
0-TS Thiên Mục Văn Lễ
Gender ♂️ Male

Hành Trạng

Additional Info

6. Thiền sư Văn Lễ - Thiên Mục. Thiền sư Văn Lễ - Thiên Mục ở Thiên đồng tại Minh châu, hiệu là Diệt Ông, vốn người dòng họ Nguyễn ở Lâm an tại Hàng châu, gia đình Sư ở sườn núi Thiên mục, nhân đó mà xưng gọi Sư là: “Thiền mục”. Lúc vừa mới sáu tuổi, Sư xách giỏ theo mẹ đi hái dâu, bỗng nhiên tỉnh ngộ, nghĩ tưởng, người dẫn dắt mình là ai? Bèn có chí ý muốn xuất gia. Năm mười sáu tuổi Sư đến nương tựa Sa-môn Trí Nguỵêt ở chùa Chân tướng tại trong làng quê mà cầu xin xuống tóc. Sau đó, Sư đến Tịnh từ dự tham nơi Thiền sư Hỗn Nguyên, Thiền sư Hỗn Nguyên nêu cử câu thoại. Hiện thành công án, tha cho ngươi ba mươi gậy, nhưng Sư chẳng khế ngộ, bèn đến bái yết Thiền sư Quang - Phật Chiếu ở Dục vương. Thiền sư Quang hỏi: “Nghĩ gì lại, cái gì là chư nhân ông của ngươi?” Bỗng nhiên Sư lãnh ngộ ý chỉ. Ngày khác, Thiền sư Quang lại hỏi: “Là gió động, hay là phướng động, vị Tăng ấy như thế nào?” Sư đáp: “Vật hiện trông mắt dựng đứng”. Lại hỏi: “Chẳng phải gió động, chẳng phải phướng động, nơi nào thấy được Tổ sư?” Sư đáp: “Dựng liền não che”. Thiền sư Quang vui mừng Sư nhạy bén vượt qua của Sư , bèn kéo làm thư ký. Lâu sau, Sư trở về lại Chế tây, nghe yếu chỉ “Nhất tâm tam quán ở Thượng Thiên trúc. Thiền sư Nhạc - Tùng Nguyên trong xứ đạo ở Tiến phước tại Nhiêu châu, trong thất hỏi một vị Tăng rằng: “Chẳng phải gió động, chẳng phải phướng động, phỏng định bàn luận, tức cây gậy gậy ra”. Nghe thế Sư chóng quên ngay mọi sự hiểu biết, mới đến dự tham và được ẩn khả chứng đắc rốt ráo yếu chỉ đó. Xong, Sư giã từ Thiền sư Nhạc - Tùng Nguyên, vân du tham lễ các tháp Tổ ở xứ Giang hoài. Bấy giờ Thiền sư Diễm - Chế Công đang làm chủ tại Tương sơn, kéo mời Sư đến mong làm vị Tăng thủ tòa. Tấn Lăng Vưu Công Dục vài lần đến núi, đọc lời Sư đề xướng, bèn rất vui thích đượm nhuần. Ðến năm Gia Ðịnh thứ năm (1212) thời Nam Tống, Ước trai Cư sĩ Triệu Công Tư thỉnh mời Sư khai đường giải pháp tại Tuệ vân ở Lâm an. Một nén hương làm nối dõi dòng pháp từ Thiền sư Nhạc - Tùng Nguyên. Thế rồi Sư chuyển dời đến ở Năng nhân tại Ôn châu, sau đó không lâu, Sư lại giã từ về ở Tây khâu, bấy giờ Tiết trai Triệu Công rất mến mộ hạnh cao của Sư, dần đượm nhuần qua đến ở Tây khâu. Sư chẳng hỏi về họ tên chỉ cùng nhau đàm nói trọn ngày mà thôi. Ngày hôm sau, Triệu Công tấu trình thỉnh mời Sư đến ở Tịnh từ. Ở trong thất, mỗi lần nêu cử câu thoại măng tre Nam sơn, cá mực Ðông hải, các học giả phỏng định bàn nghị, Sư liền thúc ngà xuống ba cái. Chẳng có ai ghé họp được. Sau đó Sư lại chuyển dời về ở Phước tuyền lên ở Thiên đồng. Nhân lên giảng đường, nêu cử: “Trong kinh Lăng Nghiêm nói: “Các người có thể lại chẳng phải là ngươi - Chẳng phải ngươi ở lại, chẳng phải ngươi thì ai?” Xong, Sư đọc bài tụng rằng: “Chẳng phải ngươi trở lại là ai? Hồng dạc chảy ở đá câu cá, Mặt nhật lường gió định không người quét, Chim yến ngậm đen khoảng nước bay”. Nhân ngày đông chí, lên giảng đường Sư bảo: “Chuông vàng lúc mới dậy, chín số theo đầu đếm, cùng dẫn cốc sâu oanh hót, lần lược xà sườn yến ca, điền phụ tế cứu mang, tùng từ đánh trống xả. Nông phụ quen Ngưu lang. Gái thôn dạy kén tằm, thời gian già hết người trong đời. Ðông chí hàn thực một trăm năm”. Lại nhân ngày húy kỵ Thiền sư Hoằng Trí, lên giảng đường, Sư bảo: “Ðêm sáng ngoài rèm, kiếng bán trước nhà, vốn không gồm mang, đâu có thiên viên, chánh lúc nghĩ gì rốt cùng ai ở chánh vị. Xưa trước không người sương trăng lạnh. Hoa lau gió lắng cò trắng ngủ”. Có Thượng tọa đến, vào thẳng nơi phương trượng thưa: “Tôi có cáo trạng, xin báo cùng Hòa thượng”. Sư bảo: “Ðối đầu tại nơi nào?” Thượng tọa ấy thưa: “Hòa thượng bên phải”. Sư bảo: “Lão tăng cùng ông có oán thù gì?” Thượng tọa ấy im lặng. Sư bèn bắt dừng lại và bảo: “Oan gia, oan gia, mới đến cùng xem”. Sư hỏi: “Ông tên là gì?” Thượng tọa ấy đáp: “Tên là Trí Hổ”. Sư rút lùi thân mình làm thế sợ hãi, vị Tăng ấy phỏng bàn nghị, Sư bèn trở về phương trượng. Lại có Thiền sư Pháp Chiếu - Phật Quang, mới đầu đến nương tựa nơi Sư lúc ở Lương chữ, Sư bảo đến Hạ trúc mà dự tham nơi Thiền sư Ấn - Bắc Phong. Và Sư làm hai bài kệ tụng tiển đưa Pháp Chiếu rằng: “Ðưa ông tham tìm có Thứu sơn, các phương lắm phải lạc trước ba, từ sau mở khác đồng về lại, viên chỉ đến nay cũng nhọc bàn, chọn cảnh rõ ràng phương thuốc khéo, ngoài ra phân biệt lại phải quên. Gió chiều thổi rơi mảnh hồng tàn, thôi hướng đầu rừng tìm hương cũ”. Khắp chốn tùng lâm đến nay vẫn lưu truyền đọc tụng không ngưng dứt. Sư rất thấu hiểu sâu sắc về dịch học. Trong niên hiệu Càn Thuần (?), các nho sĩ mạnh dạng xiển dương đạo học. Sư cùng họ đem tâm pháp mà chỉ thẳng, chẳng gì quên ngữ thế gian theo vui vậy. Chu Hối Am hỏi về chớ bất kính, Sư bắt tréo tay mà chỉ bày đó. Dương Từ Hồ hỏi về sức chẳng lừa dối:” Sư dùng kệ tụng mà trả lời rằng: “Sức này rõ ràng là chẳng dối, Chẳng dối có được mấy người hay, Muốn rõ voi thỏ câu toàn đề, Nhìn lấy Chánh Hốt lúc lên thềm”. Sư thấu hiểu nhân loại như thế đó. Sư giẫm trải qua năm ngôi chùa nhưng chẳng quá chín năm, mà năm tháng được nhàn rỗi, phần nhiều Sư tiêu dao tại Tây khâu, Lương chữ. Các nạp Tăng đến tham khấu đông nhiều không khác lúc Sư đang lãnh chúng. Sư là người cao đơn giản kiệm ước, chẳng bó buộc bởi nói cười. Lúc sắp thị tịch đang trong cơn bệnh, Sư hỏi thị giả rằng: “Ai có thể cùng ta đến tháp Vô Phùng?” Thị giả thưa: “Xin Sư cho biết dạng tháp?” Sư bảo: “Dốc sức họa vẽ chẳng ra”. Xong, Sư bèn điềm nhiên thị tịch. Sau khi trà tỳ, các đệ tử gom nhặc Xá-lợi và di cốt Tôn Trí an táng tại bên tả tháp của Thiền sư Ứng Am. Sư hưởng thọ tám mươi bốn tuổi, sáu mươi tám hạ lạp, đệ tử nối dõi hoằng triền dòng pháp của Sư có Thiền sư Củng (????) - Hoành Xuyên, và Thiền sư Củng (????) Thạch Lâm, được tôn xưng là hai cam lồ môn.

Contact Information

Phone
Array
Address Array
This entry was posted in . Bookmark the permalink.