TS Tiên Giác Hải Tịnh

Personal Information

Danh Tánh
TS Tiên Giác Hải Tịnh - Ðời Thứ 37 Tông Lâm Tế - Đời Thứ 5 Dòng Lâm Tế Gia Phổ Việt Nam
Gender ♂️ Male

Hành Trạng

Additional Info

Thiền Sư Tiên Giác Hải Tịnh (1788 - 1875)
Chùa Từ Ân - Gia Định

Hòa thượng Tiên Giác Hải Tịnh tên thật là Nguyễn Tâm Đoan, sanh ngày 30 tháng 5 năm Mậu Thân (1788), con của ông Nguyễn Hầu Cẩm, quê ở Gia Định.
Năm Nhâm Tuất (1802), ông Nguyễn Hầu Cẩm dẫn con trai là Nguyễn Tâm Đoan (15 tuổi), vào chùa Từ Ân ở Gia Định, làm lễ xin Hòa thượng Phật Ý Linh Nhạc cho xuất gia.
Hòa thượng Linh Nhạc giao Tâm Đoan cho Hòa thượng Viên Quang, Trụ trì chùa Giác Lâm dạy dỗ. Hòa thượng Viên Quang đặt Pháp danh Tiên Giác, hiệu Hải Tịnh. Như vậy, Sa-di Hải Tịnh được theo học với hai vị Hòa thượng tài đức và nổi danh thời đó ở Gia Định là Tổ Phật Ý Linh Nhạc và Hòa thượng Viên Quang.
Sa-di Tiên Giác chí tâm tu học ở chùa Giác Lâm và chùa Từ Ân, chăm lo nghiên cứu, tham học kinh điển và hành trì thiền định miên mật; nên sau một thời gian tu học, Ngài Tiên Giác sớm trở thành một Danh Tăng uyên bác.
Năm Tân Tỵ (1821), Tổ Phật Ý Linh Nhạc viên tịch ở chùa Từ Ân, có lẽ Hòa thượng Viên Quang cử Hải Tịnh ra trông coi chùa Từ Ân, trong khi Hòa thượng Liên Hoa đang bận hoằng hóa ở kinh đô Huế.
Tháng 3 năm Ất Dậu (1825), vua Minh Mạng cho mời Hòa thượng Hải Tịnh ra Trụ trì chùa Thiên Mụ ở kinh đô Huế. Sách Đại Nam Thực Lục chánh biên, đệ nhị kỷ ghi: “Năm Ất Dậu, Minh Mạng thứ sáu, tháng 3... cho mời Sư chùa Từ Ân ở Phiên An là Nguyễn Tâm Đoan, khiến sung làm Trụ trì chùa Thiên Mụ”.
Hòa thượng Tiên Giác giữ chức Tăng Cang chùa Thiên Mụ ở kinh đô Huế một thời gian, chưa rõ bao lâu; Tăng Cang Hải Tịnh bị tội, chưa biết rõ tội gì, nên bị cách chức Tăng Cang, bị đày làm việc nặng ở chùa này, chưa rõ bị bắt làm việc nặng trong thời gian bao lâu, mãi đến khi vua Thiệu Trị lên ngôi (năm 1841), Hòa thượng Hải Tịnh mới được vua tha tội và cho phục hồi chức Tăng Cang, tuy nhiên lúc đó ở chùa Thiên Mụ đã có Tăng Cang Nguyễn Văn Thường (Tế Bổn Viên Thường?), nên Tăng Cang Hải Tịnh vẫn phải ở chùa Thiên Mụ, chờ khi nào có chùa quan (chùa do vua lập) nào thiếu Tăng Cang thì sẽ cử thay thế. Tăng Cang Hải Tịnh là người Gia Định, hoằng hóa ở Gia Định, có lẽ là có liên hệ với Tổng trấn Gia Định thành Lê Văn Duyệt và có thể Tổng trấn Lê Văn Duyệt đề nghị với vua Minh Mạng cho Hòa thượng Hải Tịnh được làm Tăng Cang chùa Thiên Mụ. Vì vậy, khi Lê Văn Khôi nổi loạn, vua Minh Mạng kết tội Tăng Cang Hải Tịnh, cách chức Tăng Cang và bắt làm việc nặng ở chùa Thiên Mụ. Đến khi vua Minh Mạng chết, vua Thiệu Trị lên ngôi (năm 1841) mới xét lại vụ án Lê Văn Khôi, Tăng Cang Hải Tịnh mới được ân xá và cho phục chức Tăng Cang. Như vậy thời gian Tăng Cang Hải Tịnh bị kết tội “oan” là từ năm 1833 đến năm 1841.
Sau đó, Tăng Cang Tiên Giác Hải Tịnh được bổ Trụ trì chùa Long Quang (1841-1842).
Ngày 16 tháng 9 năm Thiệu Trị thứ hai (1842), Tăng Cang Hải Tịnh được triều đình cử đến Trụ trì chùa Giác Hoàng ở trong kinh thành Huế, thay thế cho Tăng Cang Nguyễn Nhất Định (tức Hòa thượng Tánh Thiên Nhất Định).
Bộ cung kính suy nghĩ kỹ lời Chỉ ban rằng: khuyết Tăng Cang chùa Giác Hoàng thì do Nguyễn Văn Thường và Nguyễn Tâm Đoan lựa cử. Nay Nguyễn Văn Thường cùng Chư Tăng các chùa lại thấy Nguyễn Tâm Đoan sung tuyển, như thế cũng khá ngại, nên đã ra lệnh cho Nguyễn Văn Thường cử lại.
Cứ theo Nguyễn Văn Thường nói thì chùa Giác Hoàng là nơi quan trọng, không như các chùa khác, Tăng sĩ tuy nhiều nhưng khó chọn được, chỉ có Nguyễn Tâm Đoan là người giỏi thiền giáo, có thể quản suất Tăng chúng được v.v...
Bọn thần thiết tưởng, các chùa đã họp nhau làm tờ Bảo cử, như vậy cũng có ý kiến thận trọng đối với chùa quan. Vậy cũng nên lấy Nguyễn Tâm Đoan điền bổ làm Tăng Cang chùa Giác Hoàng. Như được chuẩn cho, Bộ sẽ chiếu lệ, cải cấp văn bằng để thừa hành công việc. Còn khuyết Trụ trì chùa Long Quang thì sẽ do Bộ sắc bảo Nguyễn Văn Thường tuyển cử người khác điền vào.
Vậy kính dâng phiếu tấu đầy đủ, chờ Thánh chỉ. Kính tâu.
Ngày 16 tháng 9 năm Thiệu Trị thứ hai.
Thần Lê Văn Đức ký, thần Lý Văn Phức ký.
Thần Nguyễn Văn Thi ký
Đầu tháng 5 năm Thiệu Trị thứ sáu (1846), vua cho lập trai đàn Tứ tuần Thánh thọ ở chùa Diệu Đế một thất bảy ngày. Tiếp đó, các Hoàng nam, Hoàng nữ xin mở tiếp trai đàn tụng kinh chúc thọ một thất.
Ngày 22 tháng đó, các Tăng Cang chùa Thiên Mụ (Tế Bổn Viên Thường), Tăng Cang chùa Giác Hoàng và Tăng Cang chùa Diệu Đế (Hòa thượng Nguyễn Văn Chân) xin tiếp tục tụng kinh chúc thọ cho vua ở chùa Diệu Đế một thất nữa (từ 23 đến 29 tháng 5).
Năm 1847, vua Thiệu Trị băng, vua Tự Đức lên kế vị, có lẽ lúc đó, Hòa thượng Tiên Giác Hải Tịnh xin từ chức Tăng Cang ở chùa Giác Hoàng để về Gia Định Trụ trì chùa Giác Lâm như xưa.
Năm Kỷ Dậu (1849), Hòa thượng Hải Tịnh thiết lập “Giới Đàn” cho Tăng sĩ và Cư sĩ. Chư Tăng nhân giới đàn đó, cùng suy tôn Hòa thượng Hải Tịnh làm Hòa thượng đường đầu truyền giới, lúc đó Hòa thượng Hải Tịnh được 62 tuổi.
Vào giữa thế kỷ 19, ở Nam Kỳ, vấn đề nghi lễ trong Phật giáo xuất hiện phong trào “Ứng Phú”.
Ứng Phú là dùng âm nhạc cổ truyền của đạo Phật và dân tộc vào các buổi lễ tại chùa hay các lễ cầu an, tang lễ, cầu siêu... ở nhà các tín đồ.
Nguyên nghĩa của Ứng Phú: Ứng là lời mời, Phú là đi đến. Ứng Phú có nghĩa là lời mời Chư Tăng đến nhà để làm lễ về Phật giáo; danh từ bình dân gọi là “đi đám”.
Qua kinh nghiệm trong thời gian hoằng dương đạo pháp từ Gia Định ra đến kinh đô Huế; qua kinh nghiệm trong việc hành lễ về tôn giáo từ nơi thôn quê, đến thành thị và ngay tại nơi chốn triều đình, Hoàng cung; qua kinh nghiệm giảng dạy Chư Tăng ở các chùa và các thời thuyết pháp, Hòa thượng Hải Tịnh nhận thấy rằng: Chư Tăng Ni và tín đồ thời đó ưa “Ứng Phú” hơn là đến pháp hội nghe thuyết giảng kinh pháp.
Vì vậy, vào khoảng năm 1850, Hòa thượng Hải Tịnh triệu tập một cuộc đại hội của Chư Tăng và các thầy theo khoa Ứng Phú tại chùa Giác Lâm để phổ biến chủ trương “bảo vệ và phát huy tinh hoa của khoa Ứng Phú theo đúng với đạo Phật cổ truyền”, đồng thời Hòa thượng Hải Tịnh cũng đề nghị thành lập cơ sở học tập cho khoa Ứng Phú để thực hiện chủ trương đó. Chư Tăng và các thầy theo khoa Ứng Phú tham dự cuộc hội đều tán đồng ý kiến đó của Hòa thượng Hải Tịnh.
Năm 1862, triều đình Huế phải ký hiệp ước nhượng cho Pháp ba tỉnh miền đông Nam Kỳ. Năm 1867, quân Pháp đánh chiếm hết cả sáu tỉnh Nam Kỳ, Nam Kỳ trở thành thuộc địa của Pháp.
Năm Kỷ Tỵ (1869) Hòa thượng Hải Tịnh đã 82 tuổi, biết rằng mình không còn trụ thế bao lâu nữa nên sắp đặt việc thừa kế ở hai chùa Giác Lâm và Giác Viên như sau :
- Đệ tử lớn là Hòa thượng Minh Vi Mật Hạnh Trụ trì chùa Giác Lâm,
- Hòa thượng Minh Lý Quảng An làm Tri khách và phụ giúp cho Sư huynh Mật Hạnh,
- Đệ tử nhỏ hơn là Hòa thượng Minh Khiêm Hoằng Ân Trụ trì chùa Giác Viên.
Năm Tân Mùi (1871), Hòa thượng Tiên Giác Hải Tịnh hợp cùng chư Hòa thượng ở các tỉnh Nam Kỳ tổ chức Đại giới đàn tại chùa Tây An, ở núi Sam, Châu Đốc (An Giang).
Năm Ất Hợi (1875), Hòa thượng Hải Tịnh lại tổ chức Giới đàn ở chùa Thiên Ân (Gia Định), đệ tử của Hòa thượng Hải Tịnh là Minh Khiêm Hoằng Ân được phong làm giáo thọ.
Ngày mùng 8 tháng 11 năm Ất Hợi, năm Tự Đức thứ 29 (1875), Hòa thượng Tiên Giác Hải Tịnh cho gọi các đệ tử về chùa Giác Lâm để phó chúc. Hòa thượng dạy các đệ tử phải chăm lo tham học nghiên cứu kinh điển, trau dồi đạo đức phẩm hạnh, không nên ham thích theo khoa Ứng Phú dễ bị sa ngã, mà cần phải tu tập thiền định để giải thoát cảnh luân hồi sanh tử. Đúng giờ Ngọ ngày hôm đó, Hòa thượng Tiên Giác Hải Tịnh an nhiên viên tịch, thọ 88 tuổi.

Contact Information

Phone
Array
Address Array
This entry was posted in . Bookmark the permalink.