TS Ấn Nghiêm Phổ Thoại

Personal Information

Danh Tánh
TS Ấn Nghiêm Phổ Thoại - Ðời Thứ 39 Tông Lâm Tế - Ðời Thứ 6 Dòng Lâm Tế Chúc Thánh
Gender ♂️ Male

Hành Trạng

Additional Info

Thiền Sư Ấn Nghiêm - Tổ Thân - Phổ Thoại
印 嚴 祖 親 普 瑞 (1875- 1954): Chùa Long Tuyền

Hòa thượng thế danh Nguyễn Văn Thọ, sinh năm Ất Hợi (1875), niên hiệu Tự Đức thứ 28 tại làng Kim Bồng, xã Cẩm Kim, thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam. Thân phụ là cụ ông Nguyễn Văn Thái pháp danh Chương Bằng và thân mẫu là cụ bà Lê Thị Trữ. Được sinh trưởng trong một gia đình nhiều đời theo Phật nên Ngài sớm có chí nguyện thoát trần.
Năm Đinh Hợi (1887), khi vừa tròn 12 tuổi, Ngài cùng với người anh của mình được song thân đưa đến chùa Chúc Thánh lạy tổ Chương Đạo-Quảng Viên xin xuất gia tu đạo. Ngài được Tổ ban cho pháp danh Ấn Nghiêm, pháp tự Tổ Thân, còn người anh có pháp danh là Ấn Hoa tự Tổ Đường. Như vậy, Ngài nối pháp đời 39 dòng Lâm Tế và thế hệ thứ 6 pháp phái Chúc Thánh.
.

Hòa thượng Phổ Thoại

Ngài vốn người thông minh, tính tình cương trực nhưng khiêm nhượng nên tổ Quảng Viên rất yêu mến. Vào tháng 4 năm Quý Tỵ (1893), niên hiệu Thành Thái thứ 5, Hòa thượng Chí Thành khai đàn truyền giới tại tổ đình Chúc Thánh, Ngài được Bổn sư cho đăng đàn thọ Cụ Túc giới. Năm này Ngài vừa tròn 19 tuổi.

Thọ giới xong, Ngài về tiếp tục theo Thầy học đạo. Nhưng bất hạnh thay, đến tháng chạp cùng năm thì Hòa thượng Quảng Viên viên tịch. Sau khi cư tang 2 năm, Ngài về tổ đình Phước Lâm y chỉ Hòa thượng Vĩnh Gia để tiếp tục chí nguyện ‘Thượng cầu hạ hóa” và được tổ Vĩnh Gia phú pháp hiệu là Phổ Thoại. Từ đây, Ngài trụ lại Phước Lâm tinh tấn tu học kinh luật, đồng thời được tổ Vĩnh Gia giao cho chức vụ Thủ Chúng.

Năm Kỷ Dậu (1909), được một Phật tử hiến cúng khu đất tại ấp Hậu Xá, xã Thanh Hà, Ngài xin phép tổ Vĩnh Gia ra lập một thảo am nhỏ lấy tên là Long Tuyền để tiện việc tu niệm. Cũng trong năm này, Ngài vận động đúc một đại hồng chung nặng 200Kg dưới sự chứng minh của ngài Tăng cang Từ Trí. Từ đó, Ngài lần lần xây dựng Long Tuyền thành một ngôi Phạm vũ nguy nga và được triều đình nhà Nguyễn ban sắc tứ vào năm Quý Dậu (1933), niên hiệu Bảo Đại thứ 8.

Năm Tân Dậu (1921), Ngài đứng ra thành lập tổ chức Bản Tỉnh Chư Sơn Hội nhằm mục đích củng cố Tăng già, chỉnh đốn Thiền môn. Ngài được chư sơn tín nhiệm cung thỉnh làm Trị Sự đầu tiên. Cũng trong năm này, Ngài kiến tạo một ngôi tháp trước chánh điện lấy tên là Đa Bảo tháp. Đây là di tích biểu hiện hạnh tu kinh Pháp Hoa và niệm Phật của Ngài.

Năm Mậu Thìn (1928), Ngài được cung thỉnh làm Đệ nhị tôn chứng sư tại Đại giới đàn chùa Từ Vân-Đà Nẵng.

Năm Quý Dậu (1933), tỉnh hội Phật học Quảng Nam thành lập, Ngài được cung thỉnh làm Chứng minh đạo sư cho hội.

Năm Nhâm Ngọ (1942), Ngài đứng ra trùng tu hai ngôi chùa Hội Nguyên và Kim Bửu tại hai xã Kim Bồng đông tây, quê hương của Ngài.

Hòa thượng Phổ Thoại là một người giới luật tinh nghiêm, chuyên cần tu niệm, thường trì tụng kinh Phạm Võng. Đạo phong của Ngài được Chư sơn trong bản tỉnh xưng tán với ba chữ “Phước Huệ Sanh” và “Thiền Lâm Long Tượng” nhân dịp chùa Long Tuyền nhận sắc tứ vua ban. Công đức và oai nghi của Ngài được đệ tử là Chơn Ngọc-Long Trí ghi lại trong hồi ký của mình như sau:

“ Đối với chư sơn tỉnh Quảng Nam, Ngài có công rất lớn. Trong thời kỳ phong kiến và đô hộ, với tư cách Trị sự trưởng của sơn môn, Ngài thường kẹp dù hết lên tỉnh rồi xuống tòa xin bổ nhiệm Kiểm Tăng ở chỗ này hay chỗ nọ, hết kiện đất chùa này lại trình quan việc kia…

Đến thời Pháp tái chiếm, Ngài xuống tận đồn can thiệp cho mỗi chùa một bảng niêm yết để quân đội không vào chùa bắt bớ, phá phách. Với tướng mạo cao ráo, oai nghi lẫm lẫm, Ngài quả là một bậc tượng vương, thể hiện được tinh thần đại hùng đại lực của Phật giáo. Đối với chùa Long Tuyền, Ngài tu hành rất khắc khổ, ăn uống đơn giản, tiết kiệm từng đồng để mua ruộng tạo nên một nền kinh tế tự lập cho Tăng chúng.”

Ngoài tinh thần vì Đạo pháp, Ngài còn có một tinh thần Dân tộc rất cao. Ngài thường nói: “Nước nhà mất thì đạo cũng không còn, nên cần phải có ý thức trách nhiệm đối với quốc gia”. Ngài khuyến khích nhân dân trong vùng ngoài việc tu đạo còn phải tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp.

Trong thời gian từ năm 1945 đến 1954, nhân dân trong vùng bị chiến tranh làm đau khổ đói rách, Ngài đi từng nhà để an ủi và tìm cách giúp đỡ để họ xây dựng lại cuộc sống.

Với đạo đức cao thâm, Ngài đã cảm hóa rất nhiều người, trong đó có tiến sĩ Tam Giáp Hồ Mộng Hàn. Ông này đã không hết lời ca ngợi công đức của Ngài và cảnh trí chùa Long Tuyền như sau:

Ngài vốn người thông minh, tính tình cương trực nhưng khiêm nhượng nên tổ Quảng Viên rất yêu mến. Vào tháng 4 năm Quý Tỵ (1893), niên hiệu Thành Thái thứ 5, Hòa thượng Chí Thành khai đàn truyền giới tại tổ đình Chúc Thánh, Ngài được Bổn sư cho đăng đàn thọ Cụ Túc giới. Năm này Ngài vừa tròn 19 tuổi.

Thọ giới xong, Ngài về tiếp tục theo Thầy học đạo. Nhưng bất hạnh thay, đến tháng chạp cùng năm thì Hòa thượng Quảng Viên viên tịch. Sau khi cư tang 2 năm, Ngài về tổ đình Phước Lâm y chỉ Hòa thượng Vĩnh Gia để tiếp tục chí nguyện ‘Thượng cầu hạ hóa” và được tổ Vĩnh Gia phú pháp hiệu là Phổ Thoại. Từ đây, Ngài trụ lại Phước Lâm tinh tấn tu học kinh luật, đồng thời được tổ Vĩnh Gia giao cho chức vụ Thủ Chúng.

Năm Kỷ Dậu (1909), được một Phật tử hiến cúng khu đất tại ấp Hậu Xá, xã Thanh Hà, Ngài xin phép tổ Vĩnh Gia ra lập một thảo am nhỏ lấy tên là Long Tuyền để tiện việc tu niệm. Cũng trong năm này, Ngài vận động đúc một đại hồng chung nặng 200Kg dưới sự chứng minh của ngài Tăng cang Từ Trí. Từ đó, Ngài lần lần xây dựng Long Tuyền thành một ngôi Phạm vũ nguy nga và được triều đình nhà Nguyễn ban sắc tứ vào năm Quý Dậu (1933), niên hiệu Bảo Đại thứ 8.

Năm Tân Dậu (1921), Ngài đứng ra thành lập tổ chức Bản Tỉnh Chư Sơn Hội nhằm mục đích củng cố Tăng già, chỉnh đốn Thiền môn. Ngài được chư sơn tín nhiệm cung thỉnh làm Trị Sự đầu tiên. Cũng trong năm này, Ngài kiến tạo một ngôi tháp trước chánh điện lấy tên là Đa Bảo tháp. Đây là di tích biểu hiện hạnh tu kinh Pháp Hoa và niệm Phật của Ngài.

Năm Mậu Thìn (1928), Ngài được cung thỉnh làm Đệ nhị tôn chứng sư tại Đại giới đàn chùa Từ Vân-Đà Nẵng.

Năm Quý Dậu (1933), tỉnh hội Phật học Quảng Nam thành lập, Ngài được cung thỉnh làm Chứng minh đạo sư cho hội.

Năm Nhâm Ngọ (1942), Ngài đứng ra trùng tu hai ngôi chùa Hội Nguyên và Kim Bửu tại hai xã Kim Bồng đông tây, quê hương của Ngài.

Hòa thượng Phổ Thoại là một người giới luật tinh nghiêm, chuyên cần tu niệm, thường trì tụng kinh Phạm Võng. Đạo phong của Ngài được Chư sơn trong bản tỉnh xưng tán với ba chữ “Phước Huệ Sanh” và “Thiền Lâm Long Tượng” nhân dịp chùa Long Tuyền nhận sắc tứ vua ban. Công đức và oai nghi của Ngài được đệ tử là Chơn Ngọc-Long Trí ghi lại trong hồi ký của mình như sau:

“ Đối với chư sơn tỉnh Quảng Nam, Ngài có công rất lớn. Trong thời kỳ phong kiến và đô hộ, với tư cách Trị sự trưởng của sơn môn, Ngài thường kẹp dù hết lên tỉnh rồi xuống tòa xin bổ nhiệm Kiểm Tăng ở chỗ này hay chỗ nọ, hết kiện đất chùa này lại trình quan việc kia…

Đến thời Pháp tái chiếm, Ngài xuống tận đồn can thiệp cho mỗi chùa một bảng niêm yết để quân đội không vào chùa bắt bớ, phá phách. Với tướng mạo cao ráo, oai nghi lẫm lẫm, Ngài quả là một bậc tượng vương, thể hiện được tinh thần đại hùng đại lực của Phật giáo. Đối với chùa Long Tuyền, Ngài tu hành rất khắc khổ, ăn uống đơn giản, tiết kiệm từng đồng để mua ruộng tạo nên một nền kinh tế tự lập cho Tăng chúng.”

Ngoài tinh thần vì Đạo pháp, Ngài còn có một tinh thần Dân tộc rất cao. Ngài thường nói: “Nước nhà mất thì đạo cũng không còn, nên cần phải có ý thức trách nhiệm đối với quốc gia”. Ngài khuyến khích nhân dân trong vùng ngoài việc tu đạo còn phải tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp.

Trong thời gian từ năm 1945 đến 1954, nhân dân trong vùng bị chiến tranh làm đau khổ đói rách, Ngài đi từng nhà để an ủi và tìm cách giúp đỡ để họ xây dựng lại cuộc sống.

Với đạo đức cao thâm, Ngài đã cảm hóa rất nhiều người, trong đó có tiến sĩ Tam Giáp Hồ Mộng Hàn. Ông này đã không hết lời ca ngợi công đức của Ngài và cảnh trí chùa Long Tuyền như sau:
龍 泉 巍 峩 Long Tuyền nguy nga
日 射 晚 霞 Nhựt xạ vãn hà
祇 園 之 樹 Kỳ viên chi thọ
恒 河 之 沙 Hằng hà chi sa
漆 像 鑄 鐘 Tất tượng chú chung
製 扁 造 塔 Chế biển tạo tháp
覺 覺 燈 傳 Giác giác đăng truyền
僊 僊 芲 踏 Tiên tiên, hoa đạp
疇 此 歸 依 Trù thử quy y
印 嚴 禪 師 Ấn Nghiêm thiền sư
衆 生 盡 度 Chúng sanh tận độ
長 勒 豊 碑 Trường lặc phong bi
Long Tuyền nguy nga
Mặt trời chói lòa
Rừng cây vườn Kỳ
Bãi cát sông Hằng
Thép tượng đúc chuông
Chế biển tạo tháp
Truyền đèn giác ngộ
Nối gót người xưa
Ðến đây quy y
Thiền sư Ấn Nghiêm
Chúng sanh độ hết
Bia ghi lâu dài.
(Hòa thượng Chơn Phát dịch)

Tối hôm mồng 8 tháng 4 năm Giáp Ngọ (1954), sau khi cử hành lễ Phật Đản xong, Ngài cùng các môn đệ ngồi đàm đạo và hóng mát trước sân chùa. Đến khoảng giờ Tý, Ngài bảo các đệ tử đưa Ngài vào trong yên nghỉ. Đến đây, Ngài bảo thầy tri sự Long Chương mở cửa chánh điện, đốt trầm hương cúng Phật và bảo rằng Ngài sắp vãng sanh. Trong khi chuông trống cử ba hồi thì giữa đêm tối bỗng sáng lòa và Ngài chắp tay niệm Phật mà hóa.

Bảo tháp của Ngài được an trí ở phía Tây Nam của chùa. Chư sơn đã phúng viếng Ngài với hai câu đối:

Phật tổ tăng quang kim thế giới

Chư sơn tú mậu ngọc càn khôn.

Và hàng môn đồ cũng đã thờ Ngài với 2 câu đối:

Truyền đăng tục đạo, đức hạnh cao thâm thiên niên lưu phước địa

Tạo tự chú chung, công năng hưởng thọ bát tuần vãng Lạc bang.

Với 80 năm trụ thế, 60 năm giáo hóa, công đức của Ngài đối Phật giáo Quảng Nam thật bất khả tư nghì. Hàng đệ tử xuất gia của Ngài phần lớn là những vị có tài đức như Chơn Phát Long Tôn; Chơn Giác Long Hải; Chơn Ngọc Long Trí v.v..., kế nghiệp Bổn sư làm cho Phật giáo Quảng Nam ngày càng xán lạn.

Contact Information

Phone
Array
Address Array
This entry was posted in . Bookmark the permalink.