Additional Info
Hòa thượng Chơn Cảnh - Ðạo Thông - Trí Thắng
眞 景 道 通 智 勝 (1891 - 1975): Chùa Thiên Hưng
Hòa thượng thế danh Nguyễn Khắc Ðôn, sinh tháng Giêng năm Tân Mão (1891) tại thôn Lương Lộc, tổng Thiều Quang, huyện Tuy Viễn, phủ Hoài Nhơn, nay là thôn Lương Lộc, xã Phước Hưng, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Ðịnh. Thân phụ là cụ ông Nguyễn Phò và thân mẫu là cụ bà Dương Thị Lân.

Hòa thượng Trí Thắng
Năm Mậu Ngọ (1918) gặp nghịch cảnh gia đình, nhưng lại là cơ duyên cho Ngài nhận thức giá trị đích thực của giáo lý nhà Phật nên Ngài phát tâm xuất gia với tổ Ấn Bình– Bửu Quang tại chùa Thiên Hòa, Bình Ðịnh, được Tổ cho pháp danh Chơn Cảnh, tự Ðạo Thông.
Năm Canh Thân (1920), 29 tuổi Ngài thọ Cụ túc giới tại Ðại giới đàn chùa Châu Long, (nay là Tổ đình Tịnh Lâm huyện Phù Cát) do Hòa thượng Phổ Huệ làm Ðàn đầu và được tổ Ấn Bình phú pháp hiệu Trí Thắng, nối pháp đời 40 tông Lâm Tế, thế hệ thứ 7 pháp phái Chúc Thánh.
Năm Tân Dậu (1921), tổ Ấn Bình viên tịch, Ngài thừa kế trú trì chùa Thiên Hòa và mở lớp dạy Hán văn, Pháp văn, Việt văn cho bá tánh quanh vùng. Ðêm 28 tháng chạp năm Nhâm Tuất (1922), do bất cẩn nên xảy ra hỏa hoạn, chùa bị thiêu hủy. Ngài xin phép được khuyến giáo khắp các tỉnh miền Nam. Năm 1923, Ngài tái thiết toàn bộ Tổ đình Thiên Hòa, tồn tại cho đến nay.
Năm Giáp Tý (1924), sau khi cử đệ tử là Thiền sư Cát Bảo, đệ tử y chỉ làm Giám tự, Ngài vào Tổ đình Bát–nhã ở Phú Yên tham học giáo lý và cùng nhiều vị Danh tăng khác giảng dạy khóa hạ như các Thiền sư chùa Từ Quang, Phước Sơn, Kim Cang, Bảo Sơn, Hương Tích, Bảo Tịnh, Thiên Sơn ở Phú Yên; Phước Tường, Hải Ðức, Thiên Bửu, Thiên Hòa ở Khánh Hòa.
Ngày 20 tháng 7 năm Ất Sửu (1925), thiền sư Cát Bảo tịch, Ngài về cử ngài Quảng Nguyên đệ tử cầu pháp làm Thủ tọa thừa kế sự nghiệp Tổ đình Thiên Hòa, rồi Ngài vào Phan Rang tham yết Hòa thượng Chơn Niệm chùa Trùng Khánh, được Hòa thượng mời lưu lại. Sau thiện tín chùa Trùng Sơn ở núi Ðá Chồng thỉnh Ngài về làm trú trì. Ở đây, Ngài cũng mở lớp dạy chữ Hán, Pháp, Việt và làm thuốc.
Năm Bính Dần (1926), nữ Phật tử Hà Thị Kỉnh pháp danh Tâm Thành ở thôn Phước Hậu, xứ Cà Ná, sinh quán Phù Cát, Bình Ðịnh, hiến cúng cho Ngài thảo am của bà cất để tu dưỡng. Ngài đã xây dựng lên ngôi chùa hiệu là Hương Viên.
Năm Ðinh Mão (1927), Phật tử Tâm Ðạt thế danh Võ Thị Hượt, phu nhân Quản đạo Nguyễn Tập đến chùa Trùng Sơn cung thỉnh Ngài về thảo am của bà để dạy giáo lý Phật–đà. Sau đó bà hiến cúng thảo am cho Ngài và được Ngài đổi thành chùa Thiên Hưng.
Năm Mậu Thìn (1928), Ngài mở lớp nội điển tại chùa Thiên Hưng. Ðệ tử theo học có các thầy Huyền Diệu, Huyền Tân, Huyền Cơ, Huyền Lý, Huyền Ý, Huyền Nghĩa, Huyền Ðạt, Huyền Châu v.v...
Năm Giáp Tuất (1934) Ngài chứng minh cho Phật tử Như Phượng thế danh Võ Thị Én sáng lập chùa Long Quang.
Năm Ất Hợi (1935), Ngài cung thỉnh Hòa thượng Trí Hải chùa Bích Liên, Bình Ðịnh; Hòa thượng Phước Hộ chùa Từ Quang, Phú Yên mở Thích học đường tại chùa Tây Thiên.
Năm Mậu Dần (1938), Ngài cùng một số Phật tử thuần thành ở Phan Rang vận động thành lập An Nam Phật học chi hội Ninh Thuận, trụ sở đặt tại chùa Thiên Hưng, do cư sĩ Nguyễn Công Tích làm Hội trưởng.
Năm Kỷ Mão (1939) triều đình Huế Sắc tứ biển ngạch cho chùa Thiên Hưng. Năm Canh Thìn (1940), hào lý và nhân dân làng Ðắc Nhơn hiến cúng toàn bộ Thiền Lâm Cổ tự cho Ngài. Ngài cử đệ tử là Thích Huyền Tân về làm trú trì. Năm Tân Tỵ (1941), Ngài xin khai khẩn 36 mẫu đất rừng hoang ở phía nam sông Ðồng Mé để mở làng Phật học. Nhưng đến năm 1945 kế hoạch bị tan vỡ.
Năm Nhâm Ngọ (1942), triều đình Huế sắc chỉ khâm ban Ðạo điệp Tăng cang cho Ngài và Sắc tứ biển ngạch cho chùa Thiền Lâm. Năm 1943, Ngài chứng minh lễ đặt đá xây dựng nghĩa trang của Hội Phật học và cho dời trụ sở An Nam Phật học từ chùa Thiên Hưng lên chùa Long Quang để tiện việc sinh hoạt tu học của hội viên.
Năm Giáp Thân (1944), Ngài được chư sơn Bình Ðịnh cung thỉnh chức vị Tuyên luật sư tại Ðại giới đàn Tổ đình Thiên Ðức, nơi sinh quán của Ngài.
Năm Ðinh Hợi (1947), Ngài chứng minh lễ đặt đá xây Hội quán An Nam Phật học tỉnh Ninh Thuận tại ấp Phủ Hà.
Năm 1948, Ngài vận động lập Phật học đường Phan Rang, chư sơn cung thỉnh Ngài giữ chức Giám viện kiêm Giám đốc và Giáo thọ trường. Năm Canh Dần (1950), Ngài được Hội Việt Nam Phật học Trung Việt cung thỉnh ở ngôi vị Chứng minh đạo hạnh và chức vụ Hội trưởng Hội Việt Nam Phật học tỉnh Ninh Thuận. Cùng năm này Ngài tái thiết chùa Long Quang để dời trụ sở Giáo hội tỉnh từ chùa Phước Quang núi Cà Ðú về đây. Ngài cũng được chư sơn cung thỉnh làm Trị sự trưởng Giáo hội Tăng Già Ninh Thuận.
Năm Tân Mão (1951), chư sơn và Hội Việt Nam Phật học tỉnh Khánh Hòa cung thỉnh Ngài đảm trách chức Giám đốc Phật học đường Nha Trang. Năm sau, Ngài được cung thỉnh làm Ðàn đầu Hòa thượng tại Ðại giới đàn chùa Thiên Bửu ở Ninh Hòa.
Năm 1955 Ngài thành lập Tịnh Ðộ tông Việt Nam và được cử giữ chức Tông trưởng kiêm Cố vấn Tịnh Ðộ tông tỉnh Ninh Thuận. Với cương vị này Ngài đã chứng minh khai sơn các chùa Trường Thọ, An Nhơn, Trường Sanh.
Năm Tân Sửu (1961), Ban đại diện Cổ sơn môn Trung phần được thành lập, Ngài được mời làm Chứng minh đạo sư.
Năm Giáp Thìn (1964), Ngài được cung thỉnh giữ chức Phó tăng thống kiêm Giám luật Tịnh Ðộ tông Việt Nam. Cùng năm này Ngài tham gia thành lập Phật học viện ở Ðồng Ðế, Nha Trang.
Năm Ất Tỵ (1965), Ngài mở phòng Ðông y tại chùa Thiên Hưng để chữa bệnh cho dân nghèo và chứng minh sáng lập chùa Bảo Vân ở thôn Nhơn Hội. Mùa hè năm Ất Mão (1975), Ngài cho gọi môn đồ và thiện tín về phú chúc Phật sự tương lai. Ðến ngày 12 tháng 5 (21/6/1975) lúc 10 giờ 30 phút, Ngài an nhiên thị tịch, hưởng thọ 85 tuổi đời, 54 tuổi hạ.
Hòa thượng Thích Trí Thắng là một vị Cao tăng đã có nhiều đóng góp cho phong trào chấn hưng Phật giáo, Ngài hoạt động liên tục không phút ngơi nghỉ. Nhờ đó mà phong trào Phật giáo ở tỉnh Ninh Thuận một thời được khởi sắc.
|