HT Như Phước Huyền Ý

Personal Information

Danh Tánh
HT Như Phước Huyền Ý - Ðời Thứ 41 Tông Lâm Tế - Ðời Thứ 8 Dòng Lâm Tế Chúc Thánh
Gender ♂️ Male

Hành Trạng

Additional Info

Hòa thượng Như Phước - Giải Tiềm - Huyền Ý
如 福 解 潜 玄 懿 (1891 - 1951): Chùa Liên Tôn

Hòa thượng Huyền Ý

Hòa thượng thế danh Võ Trấp, hiệu Ðồng Gian, sinh ngày 19 tháng 9 năm Tân Hợi (1891) tại làng Hưng Trị, xã Cát Thắng, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Ðịnh. Thân phụ là cụ ông tú tài Võ Toản và thân mẫu là cụ bà Lê Thị Viện pháp danh Trừng Viện. Xuất thân trong một gia đình khoa bảng nên khi vừa 8 tuổi, Ngài được gia đình cho mời thầy về tận nhà để dạy học, với ước nguyện mai sau Ngài sẽ tiếp nối con đường khoa bảng, vinh hiển như cha, anh. Vì thế Ngài đã sớm làu thông chữ Hán lẫn Quốc ngữ. Thuở nhỏ Ngài quy y với Hòa thượng Từ Mẫn tại chùa Tịnh Lâm, Phù Cát với pháp danh Trừng Phước.
Ngài thi đỗ bằng Tú tài năm 21 tuổi nhờ vào sức học tinh tấn và sự hỗ trợ của gia đình. Năm 23 tuổi, Ngài tốt nghiệp ngành sư phạm và được bổ ngay học vị Giáo sư.
Thời gian tiếp theo, Ngài vừa dạy học vừa chuyên tâm nghiên cứu kinh tạng. Nhờ uyên thâm Hán học và khả năng nhận thức tốt, Ngài dễ dàng thâm nhập vào tinh hoa Phật pháp. Ðồng thời Ngài hướng dẫn gia đình cùng tu, khuyến hóa người chung quanh đến với Phật giáo. Trong quá trình tham cứu nội tạng kinh điển, Ngài đặc biệt chú ý đến bộ sách Long Thơ Tịnh Ðộ (Hòa thượng Bích Liên– Trí Hải cho mượn). Ðó là nhân duyên phát khởi và cũng là nội dung hành hóa được Ngài mang theo suốt cả quãng đời.
Năm Kỷ Tỵ (1929), lúc 38 tuổi, Ngài đến xin xuất gia với Hòa thượng Chơn Giám–Trí Hải, được Hòa thượng ban pháp danh Như Phước, tự Giải Tiềm, hiệu Huyền Ý, nối pháp đời 41 dòng Lâm Tế, thế hệ thứ 8 pháp phái Chúc Thánh.
Tuy xuất gia muộn, nhưng khi còn tại gia Ngài đã nghiên cứu giáo điển, hơn nữa, nhờ được gần gũi với Hòa thượng Trí Hải, nên Ngài sớm tỏ ngộ thiền lý và nhanh chóng trở nên một vị Tăng học hạnh kiêm toàn. Trong giai đoạn này, Ngài đã sáng tác bài thơ nổi tiếng bằng chữ Hán tựa là Ðáo liên thành lộ.
Năm Tân Mùi (1931) Hội Nam kỳ nghiên cứu Phật học mời Ngài vào Nam để nhận trọng trách Phó chủ bút tạp chí Từ Bi Âm, cùng điều hành tòa soạn với Hòa thượng Bích Liên.
Nhờ sự hợp lực tâm đắc ấy trong thời gian từ 1932 đến 1938, Ngài đã góp phần đưa tạp chí Từ Bi Âm trở thành một phương tiện truyền bá Phật học uy tín nhất, nổi tiếng nhất thời bấy giờ, góp phần vào công cuộc chấn hưng Phật giáo đang trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ.
Năm Nhâm Thân (1932), Ngài về lại quê nhà, khai sơn chùa Liên Tôn. Sau đó, Ngài trở vào Nam tiếp tục làm Phó chủ bút báo Từ Bi Âm và danh từ Liên Tôn theo truyền thống miền Trung được dành gọi thay tên Ngài.
Năm Mậu Dần (1938) báo Từ Bi Âm bị đình bản, Ngài về lại quê nhà tiếp tục sự nghiệp hoằng pháp của mình.
Năm Bính Tuất (1946), Ngài kiến lập giới đàn tại chùa Liên Tôn, cung thỉnh Hòa thượng Bổn sư Trí Hải làm Ðàn đầu Hòa thượng.
Năm Kỷ Sửu (1949), trong tình hình đất nước đang bước vào giai đoạn quan trọng, Ngài đã hoan hỷ nhận lời mời làm Hội trưởng hội Phật giáo Cứu quốc Liên khu 5.
Trong cương vị mới ấy, Ngài đã được các vị cùng thời hỗ trợ và ủng hộ rất nhiệt tình. Trong ban lãnh đạo Hội có Hòa thượng Phước Hộ và Hòa thượng Trí Nghiêm là hai ủy viên và Hòa thượng Huyền Quang là Tổng thư ký.
Từ đó về sau, Ngài luôn thể hiện tinh thần tiến thủ mang nhiều hình thái cách tân và củng cố nếp sống thiền gia cho Tăng chúng theo tinh thần Phật giáo phát triển. Ðáng kể nhất là chủ trương Thiền Tịnh song tu. Kế nữa là việc rộng mở theo giới luật tìm mọi phương cách khả thi để Ni giới có điều kiện thực nhập tiến tu theo đà phát triển, đúng với chủ trương chấn hưng.
Năm Tân Mão (1951), Tỉnh hội Phật giáo Bình Ðịnh tổ chức khóa huấn luyện cán sự hành chánh tại xã Cát Thắng, huyện Phù Cát vào ngày 18 tháng giêng. Trong hàng tứ chúng có sự hiện diện của Ngài. Ðến ngày 27 tháng giêng, khóa học được bế mạc và theo lời mời của Ngài, toàn thể nhân sự của khóa huấn luyện đều về chùa Liên Tôn thọ trai. Chính trong ngày ấy, Ngài đã thị tịch trước sự hiện diện của đại chúng, hưởng thọ 60 tuổi đời, 22 giới lạp.
Ngoài bài thơ Ðáo Liên Thành Lộ, Ngài còn có trước tác và phiên dịch một số tác phẩm như sau:
- Sa–di Luật diễn nghĩa
- A Di Ðà kinh diễn nghĩa
- Kim Cang Bát–nhã diễn nghĩa
- Chứng Ðạo Ca diễn nghĩa
- Kinh Pháp Bảo Ðàn
- Luận về Nhân quả
- Luận về Niết–bàn
- Nghiên cứu duy thức A–lại–da
- Luận về sáu pháp Ba–la–mật
- Luận về Chánh tín–Mê tín
Tiểu thuyết:
- Hiếu nghĩa cảm phẩm
- Tu là cội phúc
Rất tiếc, các tác phẩm này, đáng kể nhất là bài thơ Ðáo Liên Thành Lộ, cho đến ngày nay vẫn còn thất lạc chưa tìm được.

Contact Information

Phone
Array
Address Array
This entry was posted in . Bookmark the permalink.