Additional Info
Hòa thượng Như Quả - Giải Nhơn - Hoàn Tuyên (Thích Thiện Hoa)
如 果 解 因 完 宣 (1918 - 1973): Chùa Phước Hậu
Hòa thượng thế danh Trần Văn Nở, sinh ngày 7 tháng 8 năm Mậu Ngọ (1918), tại làng Tân Quy, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh. Thân phụ là cụ ông Trần Văn Thế pháp danh Thiện Huệ và thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Sáu pháp danh Diệu Tịnh.
Thuở bé, Ngài quy y với tổ Chí Thiền chùa Phi Lai núi Voi, Châu Ðốc được Tổ đặt pháp danh Hồng Nở, hiệu Thiện Hoa.
Năm lên 7 tuổi, Ngài xuất gia với Hòa thượng Chơn Quý – Khánh Anh được ban pháp danh Như Quả, nối pháp đời 41 dòng Lâm Tế, thế hệ thứ 8 pháp phái Chúc Thánh.

Hòa thượng Hoàn Tuyên (Thích Thiện Hoa)
Năm Ất Hợi (1935), Ngài thọ Sa–di với pháp tự Giải Nhơn và theo học tại Phật học đường Lưỡng Xuyên.
Từ năm 1938 đến năm 1945, Ngài ra miền Trung tham học tại các học đường: Tây Thiên, Báo Quốc, Kim Sơn ở Huế và chùa Long Khánh ở Quy Nhơn.
Năm Ất Dậu (1945), Ngài hợp tác cùng Hòa thượng Trí Tịnh khai giảng Phật học đường Phật Quang tại rạch Bang Chang, xã Thiện Mỹ, Trà Ôn.
Năm Bính Tuất (1946), Ngài thọ giới Tỳ–kheo Bồ–tát tại giới đàn chùa Kim Huê, Sa Ðéc. Sau khi đắc giới, Ngài được tổ Khánh Anh ban pháp hiệu Hoàn Tuyên. Tuy nhiên vì kính ngưỡng ân đức của tổ Phi–Lai Chí Thiền nên Bổn sư đã để Ngài lưu thông đạo hiệu Thích Thiện Hoa cũng như Ngài đổi tên mình thành Trần Thiện Hoa.
Năm Quý Tỵ (1953), Giáo hội Tăng Già Nam Việt cử Ngài giữ chức Trưởng Ban giáo dục và Trưởng Ban hoằng pháp, kiêm Ðốc giáo Phật học đường Nam Việt. Ngoài việc đích thân giảng dạy cho học Tăng, Ngài còn dạy các Phật học Ni trường Từ Nghiêm và Dược Sư.
Năm Bính Thân (1956), Ngài giữ chức vụ Ủy viên Hoằng pháp của Tổng hội Phật giáo Việt Nam, cùng với Thượng tọa Nhất Hạnh xuất bản Nguyệt san “Phật giáo Việt Nam”. Ngài tổ chức phát thanh Phật giáo hằng tuần trên đài phát thanh Sài–gòn. Ngoài ra, Ngài còn lập ra nhà xuất bản Phật giáo lấy tên “Hương Ðạo” do mình chịu trách nhiệm và chủ trương mục “Phật học Tùng thư” với tám chuyên đề sách.
Năm Ðinh Dậu (1957), Ngài lại chủ xướng mở những khóa huấn luyện trú trì lấy tên là Như Lai Sứ Giả, Tăng giới đặt tại chùa Pháp Hội, Ni giới đặt tại chùa Dược Sư. Ngài chủ trương mở các lớp giáo lý Phật học phổ thông tại các chùa Ấn Quang, Phước Hòa, Xá Lợi, Giác Tâm, Dược Sư... để giảng dạy cho Phật tử, làm cho phong trào học Phật miền Nam trỗi dậy mạnh mẽ, người người hăng say tu học.
Năm Quý Mão (1963), chống sự áp bức của chế độ nhà Ngô, Ngài đã tích cực đấu tranh cho Phật giáo, nhận chức Phó chủ tịch Ủy ban Liên phái Bảo vệ Phật giáo.
Năm Giáp Thìn (1964), Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất ra đời, Ngài nhận chức Ðệ nhất Phó viện trưởng Viện hóa đạo.
Năm Bính Ngọ (1966), Ngài đảm nhận chức Viện trưởng Viện hóa đạo GHPGVNTN. Trong giai đoạn này mặc dù có nhiều sóng gió, nhưng Ngài vẫn vững vàng chèo chống, lấy sự tồn tại của đạo pháp trong sự tồn tại của dân tộc làm đường lối lãnh đạo.
Ðầu năm 1973, bệnh tình càng nặng, Ngài phải giải phẩu và không trở dậy được nữa. Cho đến ngày 20 tháng Chạp năm Nhâm Tý, nhằm ngày 23 tháng Giêng năm 1973, Ngài đã an lành viên tịch, thọ 55 tuổi, 26 Tăng lạp.
Ngài trước tác, phiên dịch nhiều tác phẩm Phật học rất có giá trị, làm nền tảng căn bản cho người học Phật như:
– Phật học Phổ thông (12 quyển)
– Bản đồ tu Phật (10 quyển)
– Duy thức học (6 quyển)
– Phật học giáo khoa các trường Bồ Ðề
– Giáo lý dạy Gia đình Phật tử
– Nghi thức tụng niệm
– Bài học ngàn vàng (8 tập)
– Ðại cương kinh Lăng–nghiêm
– Kinh Viên Giác lược giải
– Kinh Kim Cang
– Tâm kinh
– Luận Ðại thừa khởi tín
– Luận Nhân minh
|