HT Như Huệ Hoằng Thông

Personal Information

Danh Tánh
HT Như Huệ Hoằng Thông - Ðời Thứ 41 Tông Lâm Tế - Ðời Thứ 8 Dòng Lâm Tế Chúc Thánh
Gender ♂️ Male

Hành Trạng

Additional Info

Hòa thượng Như Huệ - Thanh Nguyên - Hoằng Thông
如 慧 清 源 弘 通 (1894 - 1972): Chùa Bạch Sa


Hòa thượng Hoằng Thông

Hòa thượng thế danh Nguyễn Ðộ, sinh năm Giáp Ngọ (1894) tại thôn An Ðịnh, ấp Háo Ðức, phủ An Nhơn, tỉnh Bình Ðịnh. Thân phụ là cụ ông Nguyễn Doanh và thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Huân.
Ngài xuất gia từ nhỏ với Hòa thượng Chơn Tâm–Phước Quang tại Tổ đình Sơn Long. Ðến tuổi trưởng thành, Ngài được Bổn sư cho thọ Cụ túc giới với pháp danh Như Huệ, tự Thanh Nguyên, hiệu Hoằng Thông, nối pháp đời 41 tông Lâm Tế, thế hệ thứ 8 pháp phái Chúc Thánh.
Năm Kỷ Mùi (1919), Ngài lập chùa Bạch Sa tại làng Cẩm Thượng, phủ Quy Nhơn.
Năm Tân Mùi (1931), Ngài tập chúng an cư tại chùa Bạch Sa. Năm sau, Nhâm Thân (1932), theo sự thỉnh cầu của ông Võ Chuẩn, huấn đạo tỉnh Kontum, Ngài lên cử hành đại lễ kỳ siêu và đặt đá khai sơn chùa Bác Ái tại Kontum. Sau khi việc kiến tạo hoàn tất, Ngài trạch cử đệ tử Thị Niệm–Từ Vân làm trú trì tại chùa Bác Ái.
Ngày 19 tháng 12 năm Nhâm Thân (1932), Bảo Ðại năm thứ 7, chùa Bạch Sa được phong Sắc tứ và Ngài được Bộ lễ Nam triều sắc phong Tăng cang ban cho Giới đao Ðộ điệp.

Giới đao và Ðộ điệp của Hòa thượng Hoằng Thông

Năm Giáp Ngọ (1954), chùa Bạch Sa bị giải tỏa để làm sân bay Quy Nhơn. Vì thế Ngài giao việc trùng kiến lại chùa Bạch Sa cho đệ tử là ngài Thị Niệm–Từ Năng–Giác Nguyên, còn Ngài về đảm nhận trú trì chùa Lộc Hòa tại thôn Tấn Lộc, xã Phước Lộc, thành phố Quy Nhơn. Sau đó, Ngài thiên di tái thiết và đổi tên chùa lại thành Bạch Lộc tự.
Năm Mậu Thân (1968), Giáo hội tỉnh Bình Ðịnh khai mở giới đàn tại chùa Long Khánh, Quy Nhơn đã cung thỉnh Hòa thượng chứng minh đàn giới.
Vào ngày mồng 7 tháng Chạp năm Nhâm Tý (1972), Hòa thượng viên tịch tại chùa Bạch Sa, hưởng thọ 79 tuổi. Nhục thân của Ngài được nhập bảo tháp trong khuôn viên chùa Sắc tứ Bạch Sa.
Hòa thượng Hoằng Thông là một trong những vị cao tăng của Phật giáo Bình Ðịnh trong thời cận đại. Ngài đã từng giảng dạy tại các trường Hương, trường Kỳ tại tỉnh nhà. Phần lớn chư tăng tại Bình Ðịnh như Hòa thượng Thích Huyền Quang, Thích Bảo An, Thích Ðồng Thiện đều thọ pháp với Ngài. Không những thế, Ngài còn được tăng nhân của cố đô Huế kính ngưỡng.
Hòa thượng Bích Phong, trú trì chùa Quy Thiện, Huế đã có bài thơ tặng Ngài như sau:
三 十 年 前 講 席 時
慈 容 一 覩 便 相 知
道 隆 不 愧 為 人 上
德 大 何 妨 與 眾 隨
歸 去 夢 魂 長 耿 耿
重 來 法 體 尚 依 依
個 中 自 信 無 增 减
何 害 前 塵 事 事 非
佛 暦 二 千 五 百 二 年 戊 戌 孟 春 月 順 化 水 月 主 人 碧峯 恭 贈
Tam thập niên tiền giảng tịch thì
Từ dung nhất đổ tiện tương tri
Ðạo long bất quý vi nhân thượng
Ðức đại hà phương dữ chúng tùy
Quy khứ mộng hồn trường cảnh cảnh
Trùng lai pháp thể thượng y y
Cá trung tự tín vô tăng giảm
Hà hại tiền trần sự sự phi.
Tạm dịch:
Ba mươi năm trước trên tòa giảng
Trông thấy từ dung đã biết ngay
Ðức lớn chúng trung nào kẻ sánh
Ðạo cao thiên hạ mấy ai tày
Mộng hồn qua lại y thiên nhỉ!
Pháp thể quay về sáng rỡ thay!
Tự tín vốn không tăng với giảm
Tiền trần thây mặc thị phi bày.
Phật lịch 2502, Mậu Tuất (1958) tháng mạnh xuân, Thuận Hóa Thủy nguyệt chủ nhân Bích Phong cung tặng.
(Kim Tâm – Thích Hạnh Niệm kính dịch)
Ðồng thời, thiền sư Mật Nguyện cũng đã có lời tán dương Ngài qua bài thơ như sau:
未 得 圓 融 脫 两 間
高 蒙 過 贈 意 難 安
塵 心 欲 答 情 深 契
努 力 勤 修 性 寳 藏
敬 禮 恩 師 無 量 壽
包 含 法 界 有 祿 傳
一 朝 密 願 功 成 满
大 定 楞 嚴 道 共 完
佛 暦 二 千 五 百 四 年 润 六 月 初 三 日 春 京 竹 林 晚 生 雲澤 密 願 合 十
Vị đắc viên dung thoát lưỡng gian
Cao mông quá tặng ý nan an
Trần tâm dục đáp tình thâm khế
Nỗ lực cần tu tánh bảo tàng
Kính lễ ân sư vô lượng thọ
Bao hàm pháp giới hữu lộc truyền
Nhất triêu Mật Nguyện công thành mãn
Ðại định Lăng Nghiêm đạo cộng hoàn.
Tạm dịch:
Chưa được viên dung vượt có không
Lại mong quá tặng chẳng an lòng
Tâm trần ước báo tình thâm khế
Sức mọn cần tu tánh bảo tàng
Thọ lượng vô cương con kính nguyện
Lộc hàm pháp giới đức từ ban
Một mai Mật Nguyện công thành mãn
Ðại định Lăng Nghiêm đạo sánh hàng.
Phật lịch 2504 ngày mồng 3 tháng 6 nhuận. Xuân Kinh Trúc Lâm vãng sinh Vân Trạch Mật Nguyện kính vái.
(Kim Tâm – Thích Hạnh Niệm kính dịch)
Ngoài những vần thơ do các vị cao tăng ở Huế cung tặng, Ngài còn có tài thi phú trác tuyệt, điều này được thể hiện qua bài thơ họa  như sau:

白 璧 無 瑕 本 自 然
沙 門 静 省 如 单 傳
眉 毫 朗 照 光 心 地
面 色 生 輝 透 性 天
儼 坐 塵 中 禪 慧 劔
端 居 界 内 駕 慈 船
才 高 德 重 冲 牛 斗
戒 行 精 嚴 映 月 圓
大 德 僧 剛 覆 和
Bạch bích vô hà bổn tự nhiên
Sa môn tịch tĩnh như đơn truyền
Mi mao lãng chiếu quang tâm địa
Diện sắc sanh huy thấu tánh thiên
Nghiễm tọa trần trung thiền tuệ kiếm
Ðoan cư giới nội giá từ thuyền
Tài cao đức trọng xung ngưu đẩu
Giới hạnh tinh nghiêm ánh nguyệt viên.
(Ðại Ðức Tăng cang phúc họa)
Tạm dịch:
Ngọc trắng không tỳ vốn bản nhiên
Sa – môn tịch tĩnh tự nhiên truyền
Bạch hào xán lạn ngời tâm địa
Sắc diện tươi nhuần hiển tánh thiên
Kiếm tuệ khéo cầm chơi khắp chốn
Thuyền từ vững lái dạo quanh miền
Ðức tài trác việt người khôn sánh
Như ánh trăng rằm–giới hạnh viên
(Kim Tâm – Thích Hạnh Niệm kính dịch)

Contact Information

Phone
Array
Address Array
This entry was posted in . Bookmark the permalink.