Additional Info
Hòa thượng Thị Huệ - Hạnh Giải - Bảo An
是 慧 行 解 寶 安 (1914 - 2011) : Chùa Phổ Bảo

Hòa thượng Bảo An
Hòa thượng thế danh Lê Bảo An, sinh năm Giáp Dần (1914) tại thôn Tịnh Bình, xã Nhơn Hạnh, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Ðịnh. Thân phụ là cụ ông Lê Phúng, pháp danh Như Kinh; thân mẫu cụ bà Từ Thị Hữu, pháp danh Như Bằng; đức mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Cơ, pháp danh Như Duyên.
Năm Bính Dần (1926), do nhân duyên nhiều đời nên Ngài đến Tổ đình Hưng Khánh thuộc thôn Hưng Nghĩa, xã Phước Nghĩa, huyện Tuy Phước, Bình Ðịnh xin đầu sư với Hòa thượng Chơn Hương– Chí Bảo; nhưng bấy giờ, ngài Chí Bảo vì tuổi đã cao, nên chỉ định đệ tử mình là Như Hòa–Tâm Ấn làm Bổn sư cho Ngài.
Năm Tân Mùi (1931), Hòa thượng thọ Sa–di giới tại Giới đàn Trường kỳ Phước Sơn, Bồng Sơn, do Hòa thượng Tường Quang (ngài Cam Lồ) làm Ðàn đầu, ngài Chí Bảo Chứng minh đạo sư, ngài Bích Liên làm Tuyên luật sư. Ngài được Bổn sư ban cho pháp danh Thị Huệ, tự Hạnh Giải, nối pháp đời 42, thế hệ thứ 9 pháp phái Chúc Thánh.
Năm Nhâm Thân (1932), Ngài Tâm Ấn được hương quyền tộc thuộc cùng bổn đạo cung thỉnh về trú trì Tổ đình Phổ Bảo. Hòa thượng theo Bổn sư về chùa Phổ Bảo để phụ giúp trông coi việc chùa. Với tâm tinh cần không quản ngại khó khăn cực nhọc, mọi công việc do ngài Tâm Ấn giao phó, Hòa thượng đều cố gắng chu toàn nên được Bổn sư tin tưởng thương mến.
Năm Mậu Dần (1938), vì tuổi cao sức yếu nên ngài Chí Bảo đặc cử ngài Tâm Ấn trực tiếp đảm nhận công việc điều hành
Phật sự tại Tổ đình Hưng Khánh. Cùng năm đó, Phật học đường Long Khánh do hội Phật học Bình Ðịnh tổ chức tại chùa Long Khánh, Quy Nhơn, Hòa thượng được Bổn sư giới thiệu theo học dưới sự chỉ dạy của Quốc sư Phước Huệ.
Năm Canh Thìn (1940), ngài Trí Ðộ – bấy giờ đang là Giám đốc Trường An Nam Phật học từ Huế về Bình Ðịnh, xin phép ngài Tâm Ấn để đưa Hòa thượng ra Huế tham học. Cơ duyên đã đến, Hòa thượng theo gót ngài Trí Ðộ ra Trường An Nam Phật học tại chùa Trúc Lâm, Huế tiếp tục nâng cao kiến thức Phật học. Ðồng học với Hòa Thượng có các ngài: Hòa thượng Thích Trí Quang, Hòa thượng Thích Thiện Siêu, Hòa thượng Thích Thiện Minh, Hòa thượng Thích Huyền Quang, Hòa thượng Thích Phước Trí, Hòa thượng Thích Tâm Hoàn.
Năm Nhâm Ngọ (1942), Ðại giới đàn được tổ chức tại Tổ đình Hưng Khánh do ngài Chơn Hương hiệu Chí Bảo làm Hòa thượng Ðàn đầu. Nhận biết cơ duyên đã đủ, ngài Tâm Ấn cho phép Hòa thượng đăng đàn thọ Cụ túc giới, chính thức nhận y bát, bước lên giới phẩm Tỳ–kheo với pháp hiệu Bảo An.
Năm Quý Mùi (1943), chính trường trong nước có nhiều thay đổi, Trường An Nam Phật học phải tạm thời đóng cửa, Hòa thượng trở về Tổ đình Phổ Bảo tiếp tục phụ giúp Bổn sư trong công việc trùng kiến già–lam, cũng như đảm trách những Phật sự ở tỉnh nhà. Việc theo học tại Trường An Nam Phật học của Hòa thượng bị gián đoạn kể từ đó.
Năm Ðinh Hợi (1947), hưởng ứng lời kêu gọi của uỷ ban hành chánh kháng chiến Nam Trung bộ, Hội Thanh niên Cứu quốc, Hòa thượng cùng chư sơn lúc bấy giờ khởi xướng và sáng lập Ðoàn Thanh niên Tăng sĩ Bình Ðịnh. Tổ chức này bấy giờ hoạt động nằm trong bí mật, Chủ tịch là Hòa thượng Thích Giác Tánh, Hòa thượng được cử làm Phó chủ tịch, cùng với Hòa thượng Thích Huyền Quang và Hòa thượng Thích Tâm Hoàn làm Thư ký và Giáo thọ.
Năm Mậu Tý (1948), Hòa thượng Chí Bảo viên tịch, ngài Tâm Ấn về thừa kế Tổ nghiệp tại Hưng Khánh. Hòa thượng được Bổn sư trạch cử làm trú trì Tổ đình Phổ Bảo.
Năm Kỷ Sửu (1949), Hòa thượng được cử làm Hội trưởng Hội Phật giáo Tuy Phước. Cùng năm này, Hòa thượng cùng chư tôn đức trong tỉnh đứng ra cổ động thành lập chúng Lục Hòa tỉnh Bình Ðịnh, và Hòa thượng được mời giữ chức vụ Chúng trưởng huyện Tuy Phước (năm 1951).
Năm Nhâm Thìn (1952), Hòa thượng được mời làm Cố vấn đoàn chúng A–nan.
Sau hiệp định Genève, Hòa thượng vẫn tiếp tục được cử làm Hội trưởng Hội Phật giáo huyện Tuy Phước.
Năm Mậu Tuất (1958), dù phải đảm trách khá nhiều phật sự của Giáo hội, dù phải lo chu toàn mọi việc tiếp Tăng độ chúng trong chùa giữa thời buổi khó khăn của cuộc chiến, song Hòa thượng vẫn cùng chư tôn đức trong tỉnh, như Hòa thượng Thích Huyền Quang, Thích Tâm Hoàn, Thích Ðồng Thiện, Thích Ðỗng Quán v.v... cùng chung bắt tay nhau đứng ra sáng lập Tu viện Nguyên Thiều, dùng làm cơ sở “Bồi dục Tăng tài” cho tỉnh nhà và Giáo hội. Buổi đầu Phật học viện Nguyên Thiều ra đời, Hòa thượng được bầu làm Phó Ban Quản trị khóa I (năm 1960).
Năm Quý Mão (1963), ngài Tâm Ấn viên tịch, Hòa thượng được tín đồ cung thỉnh về giữ trách vụ trú trì chùa Hưng Khánh. Từ đó “một cảnh hai quê”, Hòa thượng đảm trách điều hành và chu toàn mọi Phật sự ở cả hai ngôi Tổ đình Phổ Bảo và Hưng Khánh.
Năm Giáp Thìn (1964), Hòa thượng trùng kiến lại toàn bộ chùa Hưng Khánh một cách quy mô và khang trang như ngày nay. Cùng năm đó, chính trường trong nước gặp nhiều biến cố, cuộc chiến ở miền Trung Việt Nam ngày một trở nên khốc liệt. Trước tình hình đó, Hòa thượng nhận lãnh trách nhiệm dẫn dắt những Tăng sinh đang tu học tại Phật học viện Nguyên Thiều thời bấy giờ vào Sài–gòn lánh nạn. Tại Sài–gòn, Hòa thượng được tín đồ cung thỉnh nhận chức trú trì Niệm Phật Ðường ấp Tây Ba, Phú Nhuận. Cuối năm đó, Hòa thượng xây dựng khang trang lại ngôi Niệm Phật Ðường này và cải hiệu thành Giác Uyển tự.
Cùng năm, GHPGVNTN tỉnh Bình Ðịnh thành lập, Ngài được mời làm Ðặc ủy nghi lễ của Giáo hội.
Năm Ất Tỵ (1965), Hòa thượng được mời làm Chánh đại diện GHPGVNTN huyện Tuy Phước.
Năm Mậu Thân (1968), Hòa thượng được chư tôn đức cung thỉnh giữ chức vụ Ðặc ủy Tăng sự GHPGVNTN tỉnh Bình Ðịnh, khóa II.
Năm Kỷ Dậu (1969), Hòa thượng tiếp tục được mời làm Phó Giám đốc Phật học viện Nguyên Thiều, khóa II.
Năm Quý Sửu (1973), Hòa thượng giữ chức vụ Ðặc ủy cư sĩ GHPGVNTN tỉnh Bình Ðịnh, khóa III.
Năm Kỷ Mùi (1979), Hòa thượng được mời làm Phó Ban đặc cách giáo dục Tăng ni GHPGVNTN tỉnh Nghĩa Bình, khóa I. Trưởng Ban đại diện GHPGVNTN huyện Tuy Phước.
Năm Ất Sửu (1985), Hòa thượng là Thành viên trị sự GHPGVN tỉnh Nghĩa Bình, Trưởng ban Nghi lễ và Kiểm soát Tăng ni, Phật tử khóa II.
Với sự nghiêm trì giới luật, oai nghi khả kính cùng những đóng góp Phật sự to lớn của Hòa thượng, nên Hội đồng Môn phái Lâm Tế Chúc Thánh đã suy tôn Ngài lên ngôi vị Chứng minh của Môn phái.
Từ năm 1989, ngài là một trong những vị Hòa thượng Chứng minh cao niên trong hàng Tôn túc của Phật giáo Bình Ðịnh.
Ngày 7 tháng 11 năm 1999, với sự nghiêm trì giới luật, oai nghi khả kính cùng những đóng góp Phật sự to lớn của Hòa thượng, tại Phương trượng Tổ đình Chúc Thánh - Hội An, toàn thể môn phái Chúc Thánh-Minh Hải suy tôn và cung thỉnh Hòa thượng làm Trưởng môn phái Chúc Thánh-Minh Hải tại ba tỉnh Bình Ðịnh, Phú Yên và Quảng Ngãi, ngõ hầu làm tấm gương sáng cho hàng hậu bối noi theo.
Năm 2000, ngài được cung thỉnh làm Chứng minh Ðạo sư Ðại giới đàn Chánh Nhơn - Bình Ðịnh. Cùng năm, Hoà thượng được Hội Ðại Bồ Ðề Ấn Ðộ cung thỉnh chứng minh Ðại Lễ cung nghinh và triển lãm Xá lợi Phật Tổ tại Bồ Ðề Ðạo Tràng - Ấn Ðộ. Sau khi chiêm bái các Thánh tích Phật giáo tại Ấn Ðộ và Népal, trên đường trở về Việt Nam, Hòa thượng đến viếng Vương quốc Phật giáo Thái Lan.
Tuổi đời đã cao, sức khoẻ ngày một yếu dần, nên Hòa thượng giao phó việc trụ trì tổ đình Phổ Bảo cùng những Phật sự cho đệ tử là Thượng tọa Thích Ðồng Chơn, để niệm Phật an dưỡng tuổi về chiều.
Năm 2011, sau một thời gian bệnh duyên, mặc dù đã được môn đồ và các y bác sĩ tận tình chữa trị, nhưng thân tứ đại của Hòa thượng đã đến lúc thuận thế vô thường. Ngài an nhiên viên tịch vào lúc 01 giờ 45 phút sáng ngày 22 tháng Giêng năm Tân Mão (nhằm ngày 24 tháng 2 năm 2011), tại tổ đình Phổ Bảo, xã Phước Thuận, huyện Tuy Phước, Bình Định. Ngài trụ thế 98 năm, pháp tuế 70 hạ lạp.
|