Additional Info
Hòa thượng Ðồng Kỉnh - Thành Tín - Tín Quả
同 敬 成 信 信 果 (1891 - 1978): Chùa Hội Phước

Hòa thượng Tín Quả
Hòa thượng pháp húy Ðồng Kỉnh, tự Thành Tín, hiệu Tín Quả nối pháp đời 43 dòng Lâm Tế, thế hệ thứ 10 pháp phái Chúc Thánh. Ngài thế danh Ðinh Văn Phải, sinh vào giờ Dần ngày mồng 7 tháng Giêng năm Tân Mão (1891) niên hiệu Thành Thái thứ 3 tại tỉnh Phú Yên. Thân phụ là cụ ông Ðinh Văn Sơn và thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Liên.
Năm Nhâm Dần (1902), khi lên 12 tuổi Ngài xuất gia với Hòa thượng trú trì chùa Long Khánh, thị xã Tuy Hòa, Phú Yên với pháp danh Nguyên Tu, tự Thành Tín.
Năm Bính Ngọ (1906), Ngài thọ Sa–di tại giới đàn trường kỳ chùa Long Quang huyện Sông Cầu và đến năm Canh Tuất (1910), Ngài vừa tròn 20 tuổi được Bổn sư cho thọ Cụ túc giới tại giới đàn chùa Hồ Sơn, Tuy Hòa, Phú Yên.
Sau khi thọ giới, vì muốn tiến tu đạo nghiệp nên Ngài xin Bổn sư được đến cầu học với quý Hòa thượng tôn túc ở các chùa: Hồ Sơn, Phú Thứ, Ðồng Thạnh, Linh Sơn..., cũng như các vị Danh tăng ở các tỉnh thành lân cận.
Năm Mậu Thìn (1928), nhân chuyến vào Nha Trang tham học, cảm mến đạo phong của tổ Thị Thọ–Nhơn Hiền nên Ngài đến cầu pháp nhân duyên với Tổ tại chùa Hội Phước, được Tổ ban pháp danh Ðồng Kỉnh hiệu Tín Quả. Sau đó tiếp tục lên đường vân du vào các tỉnh phía nam, đến tận Nam Vang, thủ đô Cao Miên để tham cứu đạo lý.
Năm Ất Dậu (1945), Ngài trở về thọ Bồ–tát giới tại giới đàn Hải Ðức, Nha Trang. Năm Kỷ Sửu (1949) đáp lời cung thỉnh của các hương hào làng Phương Sài, Ngài chính thức nhận kế thế trú trì chùa Hội Phước.
Trong 30 năm trụ tại Tổ đình Hội Phước, Ngài đã hoàn thành sứ mệnh cao cả của người trưởng tử Như Lai “Thượng cầu hạ hóa”, truyền trì đạo pháp, cùng Tăng chúng và tín đồ trùng tu ngôi cổ tự thêm huy hoàng. Ngoài việc chăm sóc chốn Tổ, Ngài còn xây dựng và kiến tạo một số ngôi chùa trong tỉnh Khánh Hòa cho chư Tăng tín đồ tu học như chùa Thiền Lâm tại Ðồng Ðế, Nha Trang (1967); chùa Long Hoa tại Vạn Thắng, Vạn Ninh (1968); lập chùa Phước Ðiền tại Diên Sơn, Diên Khánh (1970); chùa Bảo Hoa tại Ninh Quang, Ninh Hòa (1971); chùa Châu Long tại Xuân Hà, Vạn Ninh (1974).
Với uy tín và đức độ, Ngài được chư Tăng tỉnh Khánh Hòa cung thỉnh đảm nhận những chức vụ trong các Phật sự như sau: Thượng thủ GHTG tỉnh Khánh Hòa (1956–1959); Chứng minh đạo sư GHTG tỉnh Khánh Hòa (1959–1962).
Năm Nhâm Thìn (1952), Ngài được cung thỉnh làm Yết–ma A–xà–lê tại giới đàn chùa Thiên Bửu Hạ, huyện Ninh Hòa.
Năm Tân Sửu (1961), Ngài được cung thỉnh làm Ðàn đầu Hòa thượng tại giới đàn truyền giới Sa–di tại chùa Thiên Bửu Hạ–Ninh Hòa.
Năm Ất Tỵ (1965), Ngài lại thí giới Sa–di tại giới đàn chùa Linh Sơn, Vạn Ninh.
Năm Nhâm Tý (1972), Giáo hội tỉnh Bình Tuy khai Ðại giới đàn đã cung thỉnh Ngài làm Hòa thượng Ðàn đầu truyền trao giới pháp Sa–di và Tỳ–kheo cho Tăng chúng tu học.
Năm Ðinh Tỵ (1977), nhận thấy tuổi già sức yếu, muốn dành thời gian cho việc tu niệm nên Ngài đã trạch cử đệ tử là Ðại đức Thích Quảng Thiện, pháp danh Chúc Thọ kế thế trú trì Tổ đình Hội Phước.
Phật sự viên mãn, vào giờ Tuất ngày 13 tháng 8 năm Mậu Ngọ (1978), Ngài an nhiên viên tịch, trụ thế 87 năm, 67 tuổi đạo. Tháp của ngài hiện được tôn trí trong khu vực tháp phần của chùa Long Sơn, Nha Trang cách kim thân Phật Tổ khoảng 100m về phía nam.
Hàng đệ tử xuất gia của Ngài còn có các vị như Chúc Vượng, Chúc Thông, Chúc Long, Chúc Ðức, Chúc Xuân, Chúc Hòa v.v...đang hành đạo khắp nơi trong và ngoài tỉnh Khánh Hòa.
|