Additional Info
Hòa thượng Thị An - Hành Trụ - Phước Bình
是 安 行 住 福 平 (1904 - 1984): Chùa Ðông Hưng

Hòa thượng Hành Trụ
Hòa thượng pháp danh Thị An, pháp tự Hành Trụ, pháp hiệu Phước Bình, thuộc dòng Lâm Tế Chúc Thánh đời thứ 42. Ngài thế danh Lê An, sinh năm Giáp Thìn (1904) trong một gia đình trung nông tại làng Phương Lưu, huyện Ðồng Xuân, tỉnh Phú Yên. Thân phụ là cụ ông Lê Uyển và thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Sử.
Năm 19 tuổi, Ngài được Hòa thượng Như Ðắc–Thiền Phương chùa Phước Sơn thế độ nhận làm đệ tử và học tại đây. Năm 22 tuổi Ngài thọ Cụ túc giới và giữ chức Thư ký trong chùa.
Với phong cách đĩnh đạc và say mê học hỏi, Ngài đã trau dồi kinh luật nội điển cùng Quốc văn ở hầu hết các trường hạ, khóa học được tổ chức bấy giờ ở khắp các đạo tràng chùa Thiên Phước, Thủ Ðức năm 1934; đạo tràng Tổ đình Bát Nhã, Phú Yên năm 1935... Gặp lúc phong trào chấn hưng Phật giáo đang phát triển, Ngài vào Nam tham học ở Thích học đường Lưỡng Xuyên do các Hòa thượng Khánh Hòa, Khánh Anh, Huệ Quang lãnh đạo.
Năm Bính Tý (1936), Ngài được tiến cử làm Giáo thọ sau khóa trường Hương do Hội Lưỡng Xuyên Phật học tổ chức tại chùa Long Phước, Vĩnh Long. Sau đó, Ngài được cử ra Huế học tại Phật học đường chùa Tường Vân, rồi Tây Thiên do Quốc sư Phước Huệ chủ giảng.
Năm Nhâm Ngọ (1942), Ngài được tổ Khánh Hòa bổ về Sóc Trăng làm Giáo thọ giảng dạy ở chùa Hiệp Châu, Chi hội Kế Sách của Hội Lưỡng Xuyên Phật học và chùa Viên Giác tại Vĩnh Long.
Năm Ất Dậu (1945), Ngài được Hòa thượng Vạn An đưa về làm Giáo thọ giảng dạy tại chùa Hội Phước, Nha Mân tỉnh Sa Ðéc. Trong thời gian ấy, Ngài làm Ðệ nhất Yết–ma Ðại giới đàn chùa An Phước, Châu Ðốc. Sau đó, Ngài về chùa Long An ở Sa Ðéc, tại đây đã kết nghĩa pháp đạo huynh đệ cùng ba vị Khánh Phước, Thới An, Thiện Tường và mở Phật học đường. Chư Tăng khắp Lục Tỉnh hội tụ về tu học rất đông.
Năm Bính Tuất (1946), Ngài với ba vị sư đệ kết nghĩa lên Sài– gòn hợp nhau lập chùa Tăng Già, hiện nay là chùa Kim Liên, để tiếp độ chúng Tăng tựu về học. Ðây là Phật học đường đầu tiên ở đất Sài–gòn trong phong trào chấn hưng Phật giáo, mở đường cho các Phật học viện sau này phát triển.
Năm Ðinh Hợi (1947), Ngài lại cùng ba vị sư đệ dựng nên ngôi già–lam thứ 2 là chùa Giác Nguyên để chuyển chư Tăng về đây tu học, chùa Tăng Già biến thành trường Phật học dành cho Ni chúng.
Năm Mậu Tý (1948), Ngài mở Ðại giới đàn tại Phật học đường Giác Nguyên để truyền trao giới pháp cho Tăng ni thọ trì tu học. Sau Ngài được đề cử làm Trưởng ban Nghi lễ của Giáo hội Tăng Già Nam Việt vào năm 1951, làm Chứng minh đạo sư Hội Phật học Nam Việt tại chùa Xá Lợi, Sài–gòn cho đến cuối đời (1956– 1984) và làm Trưởng Ðoàn Phật giáo Việt Nam tham dự Hội nghị Phật giáo Thế giới kỳ 4 tại Nam Vang năm 1957.
Năm Quý Mão (1963), Ngài khai mở Phật học đường Chánh Giác tại chùa Chánh Giác, Gia Ðịnh do Ngài làm Giám đốc kiêm trú trì. Sau đó, Ngài về trú trì chùa Ðông Hưng ở Thủ Thiêm và chọn nơi này làm chốn tĩnh tu nhập thất vào những mùa An cư Kết hạ.
Năm 1967–1969, Ngài làm Giới sư các Ðại giới đàn Hải Ðức ở Phật học viện Hải Ðức, Nha Trang và Quảng Ðức ở Phật học viện Huệ Nghiêm, Sài–gòn.
Năm Canh Tuất (1970), Ngài được cung thỉnh làm Tôn chứng Tăng–già tại Ðại giới đàn Vĩnh Gia do Phật học viện Phổ Ðà tổ chức tại Ðà Nẵng.
Năm 1975–1977–1980, liên tiếp Ngài làm Ðàn đầu Hòa thượng các Ðại giới đàn tại chùa Ấn Quang do GHPGVNTN mở ra để truyền trao giới pháp cho giới tử toàn quốc.
Từ năm 1977–1981, Ngài kiêm chức Tổng vụ trưởng Tổng vụ Tăng sự của GHPGVNTN.
Năm 1981, GHPGVN được thành lập, Ngài được cung thỉnh vào làm thành viên Hội đồng Chứng minh Trung ương.
Nhận thấy thời gian đồng hành với lão bệnh phát sinh nơi thân tứ đại, từ năm 1976 trở đi, Ngài phát nguyện nhập thất an tịnh cho đến khi về cõi Phật. Vào ngày 29 tháng 10 năm Giáp Tý (1984), huyễn thân Ngài nhẹ nhàng chuyển hóa.
Ngài trụ thế 80 năm, được 59 hạ lạp, để lại trong tâm tưởng đàn hậu tấn niềm tri ân vô hạn.
Ngài có công đức lớn trong nhiệm vụ giáo dục đào tạo nhiều thế hệ Tăng tài và truyền thừa chánh pháp qua việc phiên dịch, ấn hành nhiều kinh luật phổ biến với các tác phẩm để lại:
- Sa–di luật giải
- Quy Sơn cảnh sách
- Tứ phần giới bổn như thích
- Phạm Võng Bồ–tát giới
- Kinh A Di Ðà sớ sao
- Kinh Vị Tằng Hữu Thuyết Nhân Duyên
- Kinh Hiền Nhân
- Kinh Trừ Khủng Tai Hoạn
- Tỳ–kheo giới kinh
- Khuyến phát Bồ–đề tâm văn
- Long Thơ Tịnh Ðộ
- Sơ đẳng Phật học giáo khoa thư
- Nghi thức lễ sám
- Kinh Thi Ca La Việt
- Sự tích Phật giáng thế
|