HT Tâm Đăng Trí Hiển

Personal Information

Danh Tánh
Gender ♂️ Male

Hành Trạng

Additional Info

Hòa thượng Tâm Đăng Trí Hiển (? - 1940)
Chùa Ba-la-mật - Huế

Ngài người gốc Sông Cầu, tỉnh Phú Yên, họ Nguyễn Khoa. Ngài mồ côi cha từ thuở bé, mẹ tái giá với ông Nguyễn Khoa Sâm, làm quan tại đó. Sau Ngài theo cha nuôi này về ở Vỹ Dạ, nhà cất bên cạnh chùa Ba-la-mật. Có cơ hội gần gũi Hòa thượng Viên Thành và sau đó phát tâm xuất gia. Thiên tư thông tuệ, thâm thấu giáo lý. Khi Hòa thượng Viên Thành lên Tra Am năm 1923, Ngài cử Hòa thượng Trí Hiển ở lại trông giữ chùa Ba-la-mật theo yêu cầu của dòng họ Nguyễn Khoa. Sau khi Hòa thượng Viên Thành viên tịch, Ngài lại vâng lời di chúc lên giữ chức Trú trì chùa Tra Am. Đến năm 1940 thì mất, hiện Tháp toạ lạc phía sau chùa, bên cạnh tháp Hòa thượng Trí Uyên. Khi truyền tâm pháp cho các đệ tử, Hòa thượng Bổn sư truyền cho bài kệ sau đây:
物 我 原 非 異
森 羅 敬 像 同
心 燈 炤 無 盡
動 靜 體 圓 庸
Phiên âm:
Vật, ngã nguyên phi dị,
Sâm la, kính tượng đồng.
Tâm đăng chiếu vô tận,
Động, tĩnh thể viên dung.
Nghĩa là:
Vật, ta vốn không khác,
Vạn hữu, bóng gương chung,
Đèn tâm, sáng vô tận,
Động, tĩnh thể viên dung.
Trí Hiển chắc có sáng tác nhiều văn thơ, nhưng nay chưa tìm được. Hiện thấy 4 bài kệ khắc trên bình phong sau tháp. Bài nào tư tưởng cũng hàm súc thâm trầm. Đúng là đệ tử chân truyền của Hòa thượng Bổn sư:
Bài thứ nhất: Bảo rằng hình danh và sắc tưởng làm loạn tâm nên không thể quan niệm chư Phật qua danh từ, hình ảnh, nếu học giả quan niệm như thế, hoạ may chỉ còn cách tìm trong bụng phu nhân Ma Gia mới gặp được. Giọng điệu thật hài hước:
見 色 聞 聲 體 本 常
一 重 雪 上 一 重 霜
一 今 要 見 黃 頭 老
走 入 摩 耶 腹 內 藏
Phiên âm:
Kiến sắc, văn thanh, thể bản thường.
Nhất trùng tuyết thượng, nhất trùng sương.
Quân kim yêu kiến hồn đầu lão,
Tẩu nhập Ma-gia phúc nội tàng!
Nguyễn văn Thoa dịch:
Thấy sắc, nghe thanh vốn chuyện thường,
Gây phiền như tuyết phủ thêm sương
Nay anh mong ước tìm ra Phật,
Vào bụng Ma-gia hoạ gặp đường.
Bài thứ hai, bảo rằng chư Phật của ba đời quá khứ, hiện tại và tương lai thấy trước mắt phàm bằng hình ảnh sắc tướng đều hư giả, không thật. Chỉ có chim ca, hoa nở mới là của báu trong nhà:
Tam Phật hình nghi tổng bất chân,
Nhãn trung đồng tử diện tiền nhân,
Nhược năng tín đắc gia trung bảo,
Đề điểu sơn hoa nhất dạng xuân.
Nguyễn Văn Thoa dịch:
Chư Phật hình nghi chẳng thật đâu,
Ở trong đồng tử mắt van cầu,
Có chăng riêng để làm gia bảo,
Chim hót, hoa rừng giữa núi sâu.
Bài thứ ba, nói rõ rằng, phải vươn thốt ngoài giáo lý, kinh điển vốn là phương tiện để đạt đến cứu cánh giải thốt trong nổ lực vô biên của chính bản tâm. Cứu cánh giải thốt rất hư vô, phóng khống:
Đắc thụ phan chi vị túc kỳ,
Huyền nhai tán thủ trượng phu nhi.
Thuỷ hàn, dạ lĩnh, ngư nan mịch,
Lưu đắc không gian nguyệt tải quy.
Nguyễn Văn Thoa dịch:
Lạ chi được gốc vin cành,
Thả tay bở lở may thành trượng phu.
Đêm đông tăm cá mịt mù,
Thuyền về, trăng sáng, nghìn thu chở đầy.
Ba bài trên chỉ gián tiếp khai vị về cứu cánh giải thốt đạo. Bài sau đây mới trực tiếp bảo rằng đạo là lẽ rất nhiệm mầu, không thể nghĩ bàn bằng tư tưởng và Niết-bàn tịch diệt khó có thể bàn bạc tới bằng đầu óc phàm trần, kẻ ngộ đạo chỉ mặc tình phóng ý với mây gió trăng hoa giữa bốn biển, năm hồ:
Bài thứ tư:
Hư không cảnh giới khởi tư lương,
Đại đạo thanh u, lý cánh trường.
Đản đắc Ngũ hồ, phong nguyệt tại,
Xuân lai, Tứ hải bách hoa hương.
Nguyễn Văn Thoa dịch:
Hư không cảnh giới dễ tìm đâu,
Đạo cả cao sâu lẽ nhiệm mầu.
May gặp Ngũ hồ trăng gió đẹp,
Xuân về, hoa nở khắp năm châu.
Đọc qua bốn bài kệ trên đây, tuy số lượng di văn quá ít, nhưng cũng thấy rõ được học vấn uẩn súc, cao thâm của Trí Hiển - đại đệ tử tâm truyền của Hòa thượng Viên Thành mà cuộc đời vẫn ngắn ngủi, nhưng ít ra cũng nêu cao pháp phái Tra Am. Hòa thượng Trí Hiển thị tịch ngày 11 tháng 10 năm Canh Thìn (tức ngày 10.11.1940).
Bảo tháp của ngài được xây dựng trong khuôn viên chùa Tra Am, tọa lạc trước bảo tháp của Hòa thượng Tâm Phổ Trí Uyên.

Contact Information

Phone
Array
Address Array
This entry was posted in . Bookmark the permalink.