HT Tâm Giải Tương Ưng

Personal Information

Danh Tánh
HT Tâm Giải Tương Ưng - Ðời Thứ 43 Tông Lâm Tế - Ðời Thứ 9 Dòng Lâm Tế Liễu Quán
Gender ♂️ Male

Hành Trạng

Additional Info

Hòa Thượng Tâm Giải Tương Ưng (1912 - 1994)
Chùa Từ Quang

Hòa thượng Pháp danh Tâm Giải tự Tương Ưng, thế danh Nguyễn Duy Phú, sinh tháng 3 năm Nhâm Tý tức năm 1912 tại làng Giạ Lê Thượng, xã Thủy Phương, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Ngài xuất thân trong một gia đình có truyền thống Đạo Phật. Thân phụ là cụ Ông Nguyễn Duy Hùng và thân mẫu là cụ bà Ngô Thị Nhỏ. Thuở ấu thời, khi chưa đầy một tuổi, thân phụ đã qua đời, Hòa thượng được ông bà nội chăm sóc, nhưng chẳng bao lâu ông bà nội cũng quy tiên. Tuổi thanh xuân đã thấm mùi cay đắng, càng giúp Ngài nhận rõ về nỗi khổ của nhân sinh.
Năm 1927, đại lễ Phật đản được tổ chức trọng thể tại chùa Linh Sơn, làng Giạ Lê Thượng, đặt dưới sự chứng minh của Hòa thượng Giác Tiên, Tổ khai sơn chùa Trúc Lâm Huế. Chính không khí trang nghiêm của buổi lễ này và đạo phong uy nghi của Tổ đã làm phát sinh chí nguyện siêu tục nơi Ngài.
Sau 2 năm nuôi ước nguyện xuất gia, đúng vào ngày vía Đức Quán Thế Âm Bồ-tát 19 tháng 2 năm Kỷ Tỵ, tức năm 1929, Ngài thật sự xả vọng tầm chơn, đến chùa Trúc Lâm đảnh lễ Tổ Giác Tiên xin xuất gia học đạo. Tổ từ bi hứa khả, liền dạy ngài Đôn Hậu và ngài Mật Khế đưa Ngài ra Tổ đình Từ Quang làm đệ tử Hòa thượng Giác Bổn. Cửa Không học đạo, công hạnh thấm nhuần, bước siêu tục theo tháng ngày vững chãi. Sau 6 năm hầu Thầy học đạo, ngày 16 tháng giêng năm Giáp Tuất, tức năm 1934 Ngài đã được Bổn sư trao truyền Sa-di thập giới.
Năm 1940 Ngài lại được Bổn sư cho đăng đàn thọ Tỳ-kheo Bồ-tát giới tại Giới đàn chùa Hải Đức ngày 8 tháng 8 năm Canh Thìn do Hòa thượng Thích Phước Huệ, khai sơn chùa Hải Đức, làm Đường đầu, Hòa thượng Phước Hậu, trú trì Tổ đình Báo Quốc làm Yết-ma và Hòa thượng Phổ Thụy làm Giáo thọ.
Năm 1944, Ngài về Nha Trang cùng chư Tăng tu bổ chùa Hải Đức suốt 2 năm.
Năm 1947, Ngài phát nguyện trùng tu chùa Hoa Sơn Giác Hải.
Năm 1948, Ngài thường trú và cùng chúng Tăng chung lo Phật sự tại chùa Phật học Long Sơn, Nha Trang.
Năm 1950-1951, Bổn sư và Pháp huynh viên tịch, Ngài trở về Tổ đình Từ Quang để cư tang.
Năm 1952, Ngài trở vào Nha Trang nhận ngôi chùa Linh Phong cổ tự. Sau khi trùng tu xong, Ngài đã thỉnh một vị Tăng khác trú trì để trở về Huế đảm nhận chức Trú trì Tổ đình Từ Quang.
Năm 1954, Ngài khởi công trùng tu Tổ đình đến năm sau mới hoàn tất.
Năm 1964, Ngài trùng tu hậu đường của Tổ đình, cũng vào năm này, Ngài vào Nha Trang xây dựng khuôn hội Phước Hải và cúng dường sở đất do Ngài làm nghiệp chủ cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất để Giáo hội xây dựng Phật học Ni viện Diệu Quang Nha Trang nhằm đào tạo chư Ni.
Năm 1968, Tổ đình Từ Quang bị chiến tranh tàn phá đổ nát, Ngài lại trùng tu đến năm 1970 mới hoàn chỉnh.
Năm 1990, Ngài xây dựng thêm Phương trượng thất đã tạo thành tổng thể ngôi chùa phối trí theo chữ Khẩu.
Vào những năm 1977-1981-1989 các Giới đàn được tổ chức tại Tổ đình Báo Quốc, Ngài luôn được ban Kiến đàn cung thỉnh vào hàng Tôn chứng. Và gần đây, ngày 19 tháng 6 năm Giáp Tuất-1994, Đại Giới đàn tổ chức tại Tổ đình Báo Quốc, Ngài là vị Đệ nhất Tôn chứng.
Suốt cuộc đời tu học và hoằng Pháp, Ngài là bậc luôn luôn thủ chí hành đạo. Khi ứng xử thì chân tình trung thực, lúc tịnh cư thì lặng lẽ vô ngôn; với bản thân thì Ngài sống cuộc đời tri túc, thanh đạm, giới lạp huân tu. Đối với việc nhiếp hóa đồ chúng thì Ngài luôn sách lệ “tuyệt dứt sinh tử”. Ngài thường dạy đồ chúng” chân thật thì bất hư” chỉ chừng ấy thôi mà suốt đời tu tập và hành đạo thì “Thánh Đạo” sẽ được dự phần.
Đối với các bậc đồng học, đồng tu thì Ngài rất mực khiêm tốn. Đối với người dưới thì hết sức bao dung và sách lệ một cách trung thực. Đối với các bậc Tôn trưởng thì hết lòng cung kính phụng sự. Đối với cư sĩ tại gia hữu duyên với Ngài thì được hóa độ rất mực chân tình.
Như có linh cảm sắp xả bỏ báo thân, nên trước đó một thời gian ngắn, Ngài đã nhắn mời Thượng tọa Minh Tuấn từ Đà Nẵng về Huế để dặn dò công việc trong tông môn. Ngài khuyên các đệ tử: thầy Giải Thiện, Giải Hòa, Giải Phước, Giải Đăng… phải hết lòng thương mến nhau, bước đi theo ý hướng của Phật và Tổ, duy trì Tổ đình ngày càng thêm quang rạng. Gắn bó với những Phật tử đã có duyên với chùa để cùng nhau phụng sự ngôi Tam bảo.
Sau thời gian ngắn thị bệnh, Hòa thượng đã viên tịch vào lúc 21 giờ ngày 12 tháng 9 năm Giáp Tuất, tức ngày 16 tháng 10 năm 1994 tại Phương trượng thất, trụ thế 83 năm với 54 Hạ lạp.

Contact Information

Phone
Array
Address Array
This entry was posted in . Bookmark the permalink.