Additional Info
Thiền Sư Thiện Lai Pháp Loa
(1284 - 1330)
(Tổ thứ hai phái Trúc Lâm)
Tôn giả Pháp Loa là Tổ thứ hai của phái thiền Trúc Lâm, tên là Đồng Kiên Cương, còn có hiệu là Thiện Lai, được gọi là “Phổ Tuệ Tôn giả” hay “Phổ Tri Tôn giả”, sinh ngày mùng 7 tháng 5 năm Giáp Thân (1284), niên hiệu Thiện Bảo thứ sáu, đời vua Trần Nhân Tông, ở thôn Đông Hòa, hương Cửu La (xã Phù Vệ), huyện Chí Linh, phủ Nam Sách, Lộ Lạng Giang, sau này là trấn Hải Dương (nay thuộc huyện Nam Sách, tỉnh Hải Hưng), cha họ Đồng pháp danh Thuận Mậu, mẹ họ Vũ hiệu Từ Cứu. Trước khi sinh Kiên Cương, bà mẹ nằm chiêm bao thấy có người trao cho thanh kiếm thần, bà rất thích nên nhận lấy, sau đó bà có thai. Trước đó, bà sinh một loạt tám người con gái liên tiếp, nay có thai, bà sợ sinh con gái nữa nên bà uống thuốc phá thai ba bốn lần nhưng đều không có kết quả, đến khi sinh ra con trai, bà mừng lắm, mới đặt tên là Kiên Cương. Lúc sinh, mùi thơm lạ lan khắp cả nhà, một thời gian lâu mới tan hết mùi hương.
Đồng Kiên Cương thiên tư đĩnh ngộ, miệng không nói câu nào tạo ác, không thích ăn thịt cá và cả chất cay nồng.
Năm Giáp Thìn (1304), Trúc Lâm Đầu Đà vân du hoằng hóa ở các miền thôn quê, phá bỏ các việc thờ cúng dâm thần và tà thần, bỏ tục dùng các dâm từ…, khi đến huyện Nam Sách, Đồng Kiên Cương đến xin thọ giới xuất gia (lúc đó mới 21 tuổi). Trúc Lâm dẫn về viện Kỳ Lân ở Linh Sơn thuộc huyện Chí Linh làm lễ thọ giới Sa di, đặt pháp danh là Thiện Lai, theo học với Hòa thượng Tánh Giác ở chùa Quỳnh Quán. Thiện Lai hỏi Hòa Thượng Tánh Giác nhiều câu hỏi về Phật pháp và Thiền học nhưng Hòa thượng không khai thị được. Khi đọc kinh Lăng Nghiêm, đến đoạn A Nan hỏi Phật Thích Ca bảy lần về vị trí của tâm và đoạn nói về “khách trần”, thì bỗng thấy có chỗ sở ngộ.
Thiện Lai xin phép Hòa thượng Tánh Giác để về tham yết Trúc Lâm Đầu Đà. Gặp lúc Trúc Lâm đang thăng đường thuyết pháp, đọc bài tụng “Thái Dương Ô Kê”, Thiện Lai chợt tỉnh ngộ. Trúc Lâm biết Thiện Lai đã ngộ được thiền cơ, nên cho đi theo bên mình. Một hôm Thiện Lai trình Trúc Lâm một bài tụng về “Tam yếu”, bị Trúc Lâm gạch một gạch dài từ trên xuống dưới. Thiện Lai thỉnh cầu Trúc Lâm giảng giải đến bốn lần mà Trúc Lâm vẫn không chỉ dạy, mà bảo phải về tự tham khảo lấy. Thiện Lai về thất chí tâm thiền quán, đến quá nửa đêm, nhân thấy hoa đèn rụng. Thiện Lai chợt được đại ngộ, đến trình với Trúc Lâm chỗ sở ngộ và được ấn chứng.
Từ đó, Thiện Lai quyết theo gương Trúc Lâm Đầu Đà, tu theo hạnh “Đầu đà”.
Năm Ất Tỵ (1305), Thiện Lai được Trúc Lâm cho pháp danh là Pháp Loa tại liêu Kỳ Lân.
Năm Bính Ngọ (1306), Pháp Loa được Trúc Lâm cử làm Giảng chủ chùa Báo Ân ở huyện Siêu Loại. Đây là một trường hợp rất đặc biệt và hiếm có, mới thọ giới Sa di chưa đầy một năm thì được thọ giới Tỳ kheo và chưa đầy ba tuổi đạo mà đã được cử làm giảng chủ (tương đương với giáo thọ). Nhân thấy Huyền Quang đi theo Bảo Phác đến chùa nghe thuyết pháp, Trúc Lâm bảo Huyền Quang theo làm thị giả cho mình.
Năm Đinh Mùi (1307), Trúc Lâm tổ chức kết hạ trên núi Yên Tử cho bảy đệ tử, Pháp Loa giỏi nhất, nên được Trúc Lâm thuyết giảng cho bộ sách “Đại Huệ Ngữ Lục” ở am Thiên Bảo (vào tháng 4). Tháng 5, Trúc Lâm lên am Đỉnh Trú ở đỉnh núi Ngọa Vân. Vào rằm tháng 5, sau khi làm lễ “bố tát” xong (lễ tụng giới và phát lồ sám hối), Trúc Lâm Đầu Đà bảo hết các đệ tử xuống, chỉ cho một mình Pháp Loa ở lại để truyền y bát và tâm kệ phó chúc.
Ngày mùng Một Tết năm Mậu Thân (1308), Trúc Lâm Đầu Đà cho tổ chức một buổi lễ hết sức long trọng ở chùa Siêu Loại để truyền cho Pháp Loa kế thế Trúc Lâm Đầu Đà lãnh đạo phái thiền Trúc Lâm và chánh thức trụ trì chùa Báo Ân, Pháp Loa trở thành vị tổ thứ hai của phái thiền Trúc Lâm, lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Đại Việt, trước sự chứng kiến của vua Trần Anh Tông và sự hầu kính của cả triều thần (chỉ có vua Anh Tông được ngồi ghế trong giảng đường, tất cả các đại thần của triều đình đều phải đứng dàn hầu trang nghiêm ở phía ngoài sân trước giảng đường).
Trước đó, Đại sư Thống Chính cúng cho chùa Siêu Loại một vườn cau. Trúc Lâm bảo vua Anh Tông đổi vườn cau bằng 100 mẫu ruộng và canh phu.
Năm ấy Pháp Loa phụng chiếu truyền giới xuất gia Bồ tát cho Thái hậu Tuyên Từ và hoàng phi của vua là Công chúa Thiên Trinh. Giờ Tý đêm Mùng Một tháng 11 năm Mậu Thân (1308), Trúc Lâm Đầu Đà viên tịch ở am Ngọa Vân, trên ngọn Tử Phong, núi Yên Tử. Sau khi được tin, Pháp Loa cùng chư Tăng từ chùa Báo Ân lên am Ngọa Vân, nhặt xá lợi được ba ngàn hạt, Pháp Loa cung nghinh xá lợi và linh cữu đựng tro xương còn lại đưa về kinh đô Thăng Long, quàn tại chùa Tư Phúc. Khi về đến kinh đô, xá lợi bị mất hết mấy hạt, vua và các quan định kết tội Pháp Loa, nhưng bất ngờ, mọi người lại thấy mấy hạt xá lợi dính trong áo của Hoàng tử Mạnh (sau lên ngôi là vua Trần Minh Tông), chừng đó vua Anh Tông mới hối lỗi vì nghi oan cho Pháp Loa.
Tháng Mười năm Mậu Thân, sau khi làm lễ ở kinh đô xong, Pháp Loa trở về chùa Vân Yên trên núi Yên Tử, biên soạn lại những bài tụng, kệ của Trúc Lâm Đầu Đà ở Thạch Thất, làm thành sách “Thạch Thất mị ngữ”.
Lễ Vu Lan năm Kỷ Dậu (1309), Pháp Loa cho tổ chức trai đàn cầu nguyện cho Trúc Lâm Đầu Đà ; Pháp Loa gọi Huyền Quang đến bảo: “Những điều mà Điều Ngự Giác Hoàng dặn dò, nhà ngươi đã quên hết rồi sao ?”.
Từ đó Huyền Quang phải theo Pháp Loa để phụ giúp việc điều hành Giáo hội, hoằng dương Phật Pháp, phát triển phái thiền Trúc Lâm. (Sau khi Trúc Lâm Đầu Đà viên tịch, Huyền Quang về hoằng hóa ở chùa Vân Yên trên núi Yên Tử, chư Tăng theo học đông đến hàng ngàn người).
Ngày 16 tháng 9, Pháp Loa phụng chiếu đưa linh cốt của Trúc Lâm về an táng ở lăng Qui Đức (phủ Long Hưng), xá lợi còn được thỉnh về thờ ở tháp Huệ Quang tại am Ngoạ Vân Yên trên núi Yên Tử, thờ ở tháp Phổ Minh trước chùa Phổ Minh (phủ Thiên Trường), và thờ ở chùa Phổ Từ (phủ Long Hưng).
Năm Canh Tuất (1310), vua Anh Tông ban chiếu cho độ tăng ba năm một lần trong lễ Vu Lan cúng chay Trúc Lâm, Pháp Loa giảng Yếu chỉ kinh Hoa Nghiêm.
Năm Tân Hợi (1311), Tôn giả Pháp Loa giao cho sư huynh là Thiền sư Bảo Sát chủ trì việc khắc bản để in Đại Tạng kinh ở chùa Phổ Minh (phủ Thiên Trường). Công việc này có lẽ đã bắt đầu từ khoảng năm 1295-1296, việc in kinh bị tạm ngưng khi Trúc Lâm Đầu Đà viên tịch, bây giờ mới tiếp tục.
Đại Tạng kinh được khắc bản lại ở đây là bản Đại Tạng kinh của nhà Nguyên, được khắc in vào khoảng năm 1278-1294, tại chùa Phổ Minh ở Hàng Châu, gồm 6010 quyển, đóng lại 587 tập, có 1422 đại hạng mục (bản Đại Tạng kinh này được vua Trần Anh Tông theo lệnh của Thượng hoàng Trần Nhân Tông sai Trần Khắc Dụng và Phạm Thảo theo sứ giả nhà Nguyên là Tiêu Thái Đăng sang Trung Quốc thỉnh về năm 1295).
Tháng Tư năm này, Pháp Loa giảng Truyền đăng lục tại chùa Siêu Loại. Sau đó Huyền Quang trình kiến giải, đều được Pháp Loa chấp nhận.
Năm Nhâm Tý (1312), Pháp Loa được vua Trần Anh Tông thỉnh vào chùa Tư Phúc (hay chùa Thiên Phúc) trong đại nội (hoàng thành) để giảng “Đại Tuệ Ngữ Lục” và vua trao cho Pháp Loa 5 vạn quan tiền và lụa để bố thí cho người nghèo. Pháp Loa không nhận, vua bảo người thân cúng dường Tam bảo 500 mẫu ruộng.
Tháng 9 năm Quí Sửu (1313), Pháp Loa phụng chiếu vua đến chùa Vĩnh Nghiêm ở làng Đức La, phủ Lạng Giang (nay thuộc Bắc Giang), định chức cho Tăng đồ và lập sổ bộ cho chư Tăng. Đây có thể nói là thành lập Giáo hội Phật giáo đời Trần. Đồng thời Pháp Loa cũng cho mở Đại giới đàn, độ cho một ngàn vị tăng thọ giới xuất gia. Vì số Tăng đồ quá đông rồi nên Pháp Loa định lệ là cứ 3 năm mới mở Đại giới đàn để độ Tăng xuất gia. Mùng Một tháng Hai năm này, Thiền sư Long Đoàn ở chùa Na Già thỉnh Tôn giả Pháp Loa về chùa giảng Thiền Lâm Thiết Chủy Ngữ Lục, Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục và Kinh Duy Ma.
Ngày 18 tháng 3 năm Giáp Dần (1314), Trần Anh Tông lên làm Thái Thượng hoàng, nhường ngôi cho vua Minh Tông. Thượng hoàng giúp Pháp Loa trùng tu chùa Siêu Loại, xây điện Phật, gác kinh, gồm 33 sở và đúc ba tượng Phật đều cao 17 thước.
Năm Bính Thìn (1316), Thượng hoàng Anh Tông thọ giới Bồ tát với Tôn giả Pháp Loa.
Tháng Hai năm Đinh Tị (1317), Pháp Loa bị bệnh nặng, đem pháp y của Trúc Lâm Đầu Đà và viết bài kệ phó chúc trao cho Huyền Quang; pháp khí và gậy trao cho Cảnh Ngung, phất tử trao cho Cảnh Huy, tích trượng (gậy tre) trao cho Huệ Quán; pháp thơ và pháp cú trao cho Huệ Nhiên; linh vàng trao cho Hải Ấn, chày vàng trao cho Huệ Chúc. Nhưng sau đó ít hôm thì Pháp Loa hết bệnh, Huyền Quang từ khước việc phú chúc này. Năm này Pháp Loa khai sơn chùa Bảo Sơn Vương tại Cổ Thành, họa sĩ Hứa Khắc Thành phụng chiếu vẽ chân dung đứng của Pháp Loa.
Năm Mậu Ngọ (1318), Thượng hoàng Anh Tông có ý muốn xuất gia, nên ra lệnh cho các cung nhân ăn chay. Các cung nhân đều ngần ngại, chỉ có nữ quan Nguyễn Thị Diên chặt ngón tay đem dâng. Thượng hoàng ngợi khen ban cho 40 mẫu ruộng làm lương để ăn khi xuất gia. Quả thực, bà xuất gia với pháp danh là Tịnh Quang và tu hành cho đến khi mất.
Thượng hoàng mời Pháp Loa về am Thường Lạc ở cung Thiên Trường để giảng Truyền đăng lục và Tuyết Đậu ngữ lục. Sau khi giảng xong, Thượng hoàng Anh Tông tặng cho Pháp Loa tôn hiệu là “Phổ Tuệ Tôn giả” (sách Đại Nam nhất thống chí viết là “Phổ Tri Tôn giả”) và chính Thượng hoàng viết bốn chữ đó để tặng cho Ngài. Thái hậu, Hoàng hậu, phi tần, cung nữ, công chúa, các đại thần trong triều đình hầu hết đều thọ giới xuất gia hoặc thọ giới Bồ tát với Tôn giả Pháp Loa. Thượng hoàng Anh Tông còn thỉnh Pháp Loa biên tập sách “Hộ Quốc Nhân Vương Nghi Quỹ”, tức là sách chỉ dạy đường lối tu học và hành động của một vị vua để hộ trì Phật pháp và giúp an dân lợi nước. Thượng hoàng, vua, hoàng gia, vương hầu, quan tướng… đều tôn kính Tôn giả Phổ Tuệ, bỏ tiền của vàng bạc ra để lập chùa, đúc tượng, in kinh… Cũng trong năm này, Trưởng lão Vô Phương, hiệu Trí Tuệ, từ Hồ Nam (Trung Quốc) đến Đại Việt, Tôn giả Pháp Loa phụng chiếu đón tiếp.
Năm Kỷ Mùi (1319), nước lụt, nạn đói xảy ra, vua Trần Minh Tông nhờ Pháp Loa tổ chức cứu trợ, vua xuất kho giao cho Pháp Loa 100 lượng vàng và 500 lượng bạc.
Quốc phụ Thượng tể Trần Quốc Tảng thỉnh Pháp Loa về phủ An Hoa giảng Đại Tuệ Ngữ Lục. Nhân lúc nghỉ ở chùa Báo Thiên, Công chúa Hoa Dương thỉnh Tôn giả Pháp Loa thuyết pháp và truyền giới Bồ tát tại gia cho Công chúa và các người khác.
Tháng Chạp năm Kỷ Mùi (đầu năm 1320), Tôn giả Pháp Loa kêu gọi Phật tử hiến máu để in Đại Tạng kinh. Bộ Đại Tạng kinh gồm hơn 5.000 quyển, Đại Tạng kinh được tàng trữ ở chùa Quỳnh Lâm và có thể là ở các chùa Phổ Minh, Tư Phúc, Báo Ân (huyện Siêu Loại), Vĩnh Nghiêm… Thượng hoàng Anh Tông cùng cung phi trích máu viết Đại Tạng kinh cỡ nhỏ, gồm 20 hộp ban cho Pháp Loa.
Thiền sư Bảo Sát không cho khắc in nguyên văn bộ Đại Tạng kinh của nhà Nguyên là 6.010 quyển, mà đã bỏ bớt một số kinh, đồng thời lại thêm vào một số kinh sách của các tăng sĩ Việt Nam (Đại Việt) từ trước tới lúc đó, có thể có cả sách của Mâu Bác, Khương Tăng Hội, các thiền sư đời Lý (Vạn Hạnh, Thông Biện, Viên Chiếu, Thường Chiếu…), các Tăng và cư sĩ nổi danh đời Trần (vua Trần Thái Tông, Thượng sĩ Tuệ Trung, Trúc Lâm Đầu Đà…). Tôn giả Pháp Loa viết bài bạt cho bộ Đại Tạng kinh này (năm 1321) theo chiếu chỉ của Thượng hoàng Trần Anh Tông.
Nhưng tiếc thay, khi nhà Minh xâm lăng Đại Việt (1400-1427), vua nhà Minh đã ra lệnh tịch thu mang về Trung Quốc hoặc thiêu hủy hết kinh sách của Đại Việt, vì vậy, bộ Đại Tạng Kinh được in vào đời Trần đã bị thất lạc hết, hiện không còn tìm thấy một quyển nào còn lại cả.
Bộ Đại Tạng kinh này có thể còn lại trong kho tàng nhà Trần mà Thượng hoàng Trần Nghệ Tông cho đem chôn giấu trong núi Thiên Kiện, núi Khuẩn Mai, và khám Khã Lãng (ở Lạng Sơn) vào khoảng năm 1379, khi vua Chiêm Thành là Chế Bồng Nga đem quân đánh chiếm kinh thành Thăng Long.
Năm Canh Thân (1320), Thái hậu Bảo Từ thỉnh Tôn giả Phổ Tuệ mở hội Quán Đỉnh ở chùa Phổ Minh ở phủ Thiên Trường.
Ngày 16 tháng 3 năm này, Thượng hoàng Trần Anh Tông băng ở cung Trùng Quang, phủ Thiên Trường (táng ở Thái Lăng trên núi An Sinh), khi nhập kim quan và hạ huyệt, Tôn giả Pháp Loa đều có pháp ngữ, Đại vương Tuệ Nhân thỉnh Tôn giả về chùa Vũ Đinh truyền giới Bồ đề tâm cho ông.
Cuối năm Tân Dậu (1321), triều đình mở khoa thi cho các tăng nhân, hỏi về kinh Kim Cang, Hoài Ninh hầu Trịnh Trọng Tử đúc một tượng Quan Thế Âm ngàn tay ngàn mắt và xin thọ giới Bồ đề tâm với Tôn giả Pháp Loa.
Năm Nhâm Tuất (1322), Pháp Loa vận động đúc cho Giáo hội Trúc Lâm 1.000 tượng Phật, với sự đóng góp của hoàng gia và các đại thần trong triều đình: Thái hậu Bảo Từ, Quốc mẫu Bảo Huệ, Công chúa Bảo Vân, Văn Huệ vương Trần Quang Triều (con của Trần Quốc Tảng), Uy Huệ vương, Hoài Ninh hầu, Đoàn Nhữ Hài,… Theo đề nghị của vua Trần Minh Tông, Pháp Loa viết sách “Tham thiền yếu chỉ”, vua khen ngợi và ban hiệu là “Minh Giác”. Theo lời thỉnh của Huyền Quang, Tôn giả Pháp Loa về chùa Báo Ân ở Siêu Loại giảng kinh Hoa Nghiêm (hồi thứ 29). Sau đó Đại vương Huệ Nhân lại thỉnh Tôn giả về chùa Thịnh Quang giảng kinh Hoa Nghiêm.
Cũng trong năm này, Văn Huệ Vương Trần Quang Triều, hiệu là Vô Sơn Ông xuất gia với Tôn giả Pháp Loa. Ông đã mời Pháp Loa đến chùa An Long giảng kinh Lăng Nghiêm, sau đó lại nhờ Pháp Loa duyệt lại sách Tứ Phần luật và chú thích để đem in ra 5.000 quyển cúng dường cho tăng sĩ học tập. Pháp Loa nhờ hai sư huynh là Tông Cảnh và Bảo Phác về chùa Siêu Loại dạy luật Tứ Phần cho Tăng sĩ.
Năm Quí Hợi (1323), Văn Huệ Vương và Uy Huệ Vương thỉnh Pháp Loa đến chùa Báo Ân tại Siêu Loại để thọ giới Bồ tát và làm phép Quán Đỉnh. Cũng trong năm này, Công chúa Bảo Vân thỉnh Tôn giả Pháp Loa về chùa Siêu Loại giảng kinh Hoa Nghiêm, (hồi thứ ba và thứ tư). Tiếp theo đó, Thái hậu Bảo Từ và Tư đồ Trần Quang Triều mời Tôn giả về chùa Quỳnh Lâm giảng kinh Hoa Nghiêm (hồi thứ năm).
Năm Giáp Tý (1324), Hoàng Thái Phi Chiêu Từ xuất gia với Pháp Loa và thỉnh Tôn giả giảng kinh Hoa Nghiêm (hồi thứ sáu). Sau đó Tôn giả Pháp Loa đến chùa Phổ Quang ở Nghĩa Trụ dự lễ hội khánh tán điểm nhãn 1000 tượng Phật đã được Thiền sư Trừng Chiếu lo đúc.
Tháng sáu, Tôn giả Pháp Loa tạo hai bộ tượng Phật A Di Đà công đức bằng sơn mài, mỗi bộ có ba tượng.
Tháng Chạp, Quốc mẫu Bảo Huệ mời Tôn giả Pháp Loa vào cung Dưỡng Phúc giảng kinh Hoa Nghiêm (hồi thứ bảy). Đồng thời, khởi tạo mô hình tượng Phật Di Lặc cao một trượng sáu, vì trước đó Văn Huệ vương Trần Quang Triều và các cung phi của vua cùng Công chúa Thượng Trân đã cúng 900 lượng vàng để đúc tượng này. Ngoài ra, Thái hậu Bảo Từ cúng thêm 22 mẫu đất tại phủ An Hoa và cư sĩ Di Loan (con của Công chúa Nhựt Trinh ) cúng 33 mẫu ruộng tại phủ Thanh Hoa để công việc sớm hoàn thành.
Tư Đồ Trần Quang Triều còn cúng cho viện Quỳnh Lâm hơn một ngàn ruộng đất, cùng hơn một ngàn người canh tác.
Mùng một tháng Giêng năm Ất Sửu (1325), Quốc mẫu Bảo Huệ mời Tôn giả Pháp Loa vào cung Dưỡng Phúc giảng kinh Kim Cương Niệm Tụng. Tôn giả lại phụng chiếu vào chùa Tư Phúc trong đại nội giảng Tuyết Đậu Ngữ Lục. Tháng ba, Đại sư Tá Thánh và Công chúa Hoa Dương thỉnh Tôn giả Pháp Loa về chùa Thiên Quang giảng kinh Hoa Nghiêm (hồi thứ tám). Sau đó, Tôn giả lại phụng chỉ của Thái hậu Bảo Từ đến viện Quỳnh Lâm giảng kinh Hoa Nghiêm ( hồi thứ chín), rồi thiết lễ hội Thiên Phật bảy ngày đêm và xây hai ngôi tháp bằng gạch và bằng đá tại viện Quỳnh Lâm.
Ngày mùng một tháng Chín, Tôn giả Pháp Loa phụng chiếu vào chùa Tư Phúc trong đại nội giảng kinh Viên Giác. Tháng này trời hạn, có chiếu thỉnh Tôn giả cầu mưa. Tôn giả giao cho một vị sư cầu, được ứng nghiệm. Trong năm này, Văn Huệ Vương Trần Quang Triều hiệu Vô Sơn Ông (là anh vợ của Thượng hoàng Trần Anh Tông), một đệ tử thành tâm và hộ pháp đắc lực cho Tôn giả Pháp Loa mất, thọ 39 tuổi.
Ngày 22 tháng 2 năm Bính Dần (1326), Tôn giả Pháp Loa phụng chiếu đến chùa Vân Yên trên núi Yên Tử tôn trí xá lợi cuả Trúc Lâm Đầu Đà vào kim tháp Huệ Quang.
Tháng 3, Thượng Vị Chương Văn hầu thỉnh Tôn giả Pháp Loa về chùa Kinh Hào thuyết pháp. Ngày 30, Tôn giả lại phụng chiếu vào điện Động Thiên trong cung vua truyền giới Bồ tát cho Hoàng Thái hậu Chiêu Từ và truyền giới Bồ đề tâm cho các cung nhân.
Tháng 4 đại hạn, vua ban chiếu cho Tôn giả Pháp Loa làm lễ cầu mưa. Tôn giả sai Sa môn Thu Tử cầu được ứng nghiệm lập tức.
Ngày mùng một tháng 5, Thượng hoàng Trần Minh Tông và cung phi của vua mời Tôn giả Pháp Loa vào chùa Tư Phúc trong đại nội truyền pháp Quán Đỉnh.
Ngày mùng 7 tháng 3 năm Đinh Mão (1327), Tôn giả Pháp Loa đúc đại tượng Di Lạc và Thánh Tăng ở viện Quỳnh Lâm. Tháng 10, Tôn giả sáng lập thêm các am An Mã, Thị Khê và Hạc Lai.
Tháng 3 năm Mậu Thìn (1328), Thái hậu Bảo Từ và Quốc mẫu Bảo Huệ mời Tôn giả Huyền Quang đến viện Quỳnh Lâm tập hợp chư Tăng mười phương thiết lễ Đại trai đàn tụng kinh mười ngày đêm để cúng Thượng hoàng Trần Anh Tông và Quốc khảo Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng. Nhân lúc Thượng hoàng Trần Minh Tông đến dự lễ, Tôn giả Pháp Loa tâu xin quân cấm vệ rước đại tượng Di Lạc lên bảo tòa thếp vàng trong điện Phật.
Tháng 9, Thượng hoàng xuống chiếu nhờ Tôn giả Pháp Loa soạn sách “Nhân vương hộ quốc nghi quỹ” để tiện việc tu thân.
Tháng 7 năm Kỷ Tỵ, niên hiệu Khai Hựu thứ nhất (1329) đời Trần Hiến Tông, Tôn giả Pháp Loa xây dựng chùa Côn Sơn và chùa Thanh Mai ở huyện Chí Linh.
Tháng 8, Tôn giả truyền giới xuất gia cho Công chúa Tuyên Chân (con của Quốc phụ Thượng tể Trần Quốc Chẩn).
Tháng 9, Tôn giả lại truyền giới xuất gia cho Công chúa Lệ Bảo (con của Chiêu Huân Vương).
Tháng 11, Tôn giả lập đàn tràng ở viện Quỳnh Lâm, làm lễ điểm nhãn tượng Phật Di Lạc và thỉnh một phần xá lợi của Trúc Lâm tại tháp Thắng Tư Thiên đưa vào thờ ở trong tháp bằng đá ở viện Quỳnh Lâm.
Đầu năm Canh Ngọ (1330), Tôn giả Pháp Loa mở hội giảng kinh Hoa Nghiêm ở An Lạc tăng viện do Thiền sư Kiện Đức trụ trì. Ngày mùng 3 tháng hai, Pháp Loa bị bệnh phải nhờ Trưởng lão Bích Phong giảng tiếp. Ngày mùng 5, bệnh nặng, Huyền Quang đến thăm và ở lại đây chăm sóc. Ngày 11, Pháp Loa trở bệnh nặng hơn; nửa đêm, Pháp Loa ngủ mê bị phát ra tiếng Hư! Hư! Huyền Quang liền hỏi: “Thức với ngủ đã là một chưa?”.
Pháp Loa đáp:
- Thức với ngủ là một, là khi y không bệnh.
Huyền Quang hỏi:
- Vậy thì bệnh với không bệnh đã là một chưa?.
Pháp Loa nói:
- Bệnh hay không bệnh đều không can hệ gì đến y!
Huyền Quang hỏi tiếp:
- Thế thì tại sao có tiếng nói thốt ra?.
Pháp Loa đáp:
- Gió thổi vào cây, cứ mặc kệ nó, quan tâm làm gì.
Huyền Quang nói:
- Tiếng gió thổi vào cây người nghe không bị lầm, nhưng lời nói trong lúc ngủ mê có thể làm mê hoặc người.
Pháp Loa:
- Kẻ si mê vẫn có thể bị tiếng gió thổi vào cây làm mê lầm lắm.
Huyền Quang:
- Chỉ có tật đó mà đến chết vẫn không chừa!.
Pháp Loa liền lấy chân đạp Huyền Quang một cái!
Huyền Quang bỏ đi ra, từ đó bệnh của Pháp Loa thuyên giảm dần. Đến ngày 13, Pháp Loa được Huyền Quang đưa về chùa Quỳnh Lâm, nằm nơi phương trượng cũ (Pháp Loa trụ trì chính thức ở chùa này).
Ngày 19, ban đêm trở bệnh nặng, Tôn giả Pháp Loa lấy cà sa và đem tâm kệ của Trúc Lâm Đầu Đà truyền lại giao cho Huyền Quang, bảo phải gìn giữ, Tôn giả cũng viết kệ cho Cảnh Huy, Cảnh Ngung, Vô Tế và các đệ tử lớn . Môn đồ vào xin kệ, Tôn giả đều viết giao cho.
Ngày mùng một tháng Ba, Thượng hoàng đến thăm bệnh và ra lệnh cho Thái y đến chữa trị. Ngày mùng hai, Tôn giả Pháp Loa sai Sa môn Thu Tử đến thuyền vua Hiến Tông trình lên vua pháp kệ và di chúc. Nhưng đến đêm mùng ba tháng 3 năm Canh Ngọ (1330), Pháp Loa trở bệnh nặng. Nửa đêm, Huyền Quang thấy bệnh của Pháp Loa trở nên nguy kịch, Huyền Quang nói: “Xưa nay những bậc giác ngộ, khi giờ phút đến, muốn ở lại thì ở, muốn đi thì đi !”.
Pháp Loa nói:
- Tất cả đều không có điều chi là can hệ.
Huyền Quang hỏi tiếp:
- Nếu tất cả đều không can hệ thì thế nào?.
Pháp Loa bảo:
- Tùy xứ Tát bà ha!.
Đệ tử đồng đến xin với Pháp Loa: “Các bậc cổ đức khi sắp tịch đều có phó chúc dạy kệ cho đệ tử, sao Tôn giả lại không có?”. Pháp Loa quở trách họ. Giây lâu sau, Pháp Loa ngồi dậy, bảo đem giấy bút lại, viết bài kệ:
Muôn duyên cắt đứt tấm thân nhàn
Hơn bốn mươi năm như mộng ảo
Giã biệt ! Xin đừng theo hỏi nữa,
Bên kia trăng gió rộng thênh thang !
(Vạn duyên tiệt đoạn nhất thân nhàn
Tứ thập niên dư mộng huyễn gian
Trân trọng chư nhân hưu tá vấn
Ná biên phong nguyệt cánh năn khoan ! )
Viết xong, Tôn giả buông bút xuống, an nhiên thị tịch, thọ 47 tuổi
Đệ tử theo lời phó chúc, đưa nhục thân của Pháp Loa lên nhập tháp ở chùa núi Thanh Mai.
Tôn giả Pháp Loa còn được thờ ở chùa Hương Hải tại quê nhà (xã Phù Vệ, huyện Chí Linh), tương truyền chùa rất linh thiêng.
Pháp Loa có rất đông đệ tử, trong số 15.000 người xuất gia trong các giới đàn do phái thiền Trúc Lâm tổ chức, có đến hơn 3.000 vị theo học hoặc cầu pháp với Tôn giả Pháp Loa được đắc pháp, trong số đó có những vị nổi danh như: Cảnh Huy, Quế Đường, Kim Sơn, Trí Như, Cảnh Ngung, Tuệ Nhiên, Tuệ Quán, Tuệ Chúc, Hải Ấn, Huyền Giác, Hoàng Tuế, Cảnh Trưng, Vô Sơn Ông, vua Trần Anh Tông, Nguyên Ức, Nguyên Sưởng…
Tác phẩm của Pháp Loa gồm có:
- Thạch thất mỵ ngữ niệm tụng: những bài tụng viết về sách Thạch thất mỵ ngữ của Trúc Lâm Đầu Đà.
- Tham thiền yếu chỉ (soạn năm 1322).
- Kim Cang Trường Đà La Ni khoa chú.
- Pháp Hoa kinh khoa sớ.
- Bát nhã Ba La Mật đa Tâm kinh khoa sớ.
- Lăng Già kinh khoa sớ.
- Pháp sự khoa văn.
- Nhân vương hộ quốc nghi quỹ (soạn cho vua Trần Minh Tông).
- Đoạn sách lục.
- Phật môn công văn trợ thành: các nghi thức về cúng đàn chân tế
- Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục (biên chép lại những ngữ lục của
Thượng sĩ Tuệ Trung và các bài tán tụng Thượng sĩ của các thiền sư trong phái thiền Trúc Lâm).
- Bài bạt trong bộ Đại Tạng Kinh (in 1311-1320), soạn năm 1321.
Ngày 11 tháng 3 năm Canh Ngọ, Thượng hoàng Trần Minh Tông đến viếng tháp của Tôn giả Pháp Loa ở chùa núi Thanh Mai, ngự bút ban thụy hiệu cho Pháp Loa là “Tịnh Trí Tôn giả”, đặt tên tháp là “Viên Thông” và cảm tác bài thơ:
Vãn Pháp Loa Tôn giả đề Thanh Mai tự.
Thùy thủ trần hòan dĩ liễu duyên,
Giác Hoàng kim lũ đắc nhân truyền.
Thanh sơn man thảo quan tàng lý,
Bích thụ thâm sương xác thoát thiền.
Dạ yểm giảng đường kim cổ nguyệt,
Hiểu mê trượng thất hữu vô yên.
Tương đầu châm giới ta phi tích,
Trác tựu ai chương thế lệ huyền.
Tạm dịch:
Viếng Tôn Giả Pháp Loa, Đề Chùa Thanh Mai
Đã hết nghiệp trần thõng tay đi,
Tơ vàng Giác Hoàng được truyền y.
Phủ cỏ núi xanh, dép trong hòm,
Cây xanh sương phủ, ve lột xác.
Giảng đường dọi bóng trăng kim cổ,
Thiền thất mờ sương khói “có, không”.
Thương mến biết bao, ôi luyến nhớ,
Nhớ gương giáo hóa, lệ đầy mi!
---o0o---
Một hôm mở hội thuyết pháp, Sư lên tòa nói:
- Đại chúng! Nếu nhắm thẳng vào đệ nhất nghĩa đế mà nói, thì động niệm liền sai, mở miệng là lầm, làm sao mà xét? Làm sao mà quán? Hôm nay căn cứ vào đầu thứ hai mà nói, cũng không được thế ấy.
Sư bèn nhìn hai bên nói:
- Trong đây có người nào đầy đủ con mắt lớn chăng? Nếu có, hai cặp chân mày chẳng cần vén lên. Bằng không, bần đạo chẳng khỏi miệng nói ba hoa, đề ra những điều hủ mục, đáp những lời tạp nhạp. Chỉ vì các ông nhồi lại thành một khối hỗn độn. Lắng nghe! Lắng nghe!
Đại đạo rộng suốt nào có ràng buộc, Bản tánh lặng lẽ không thiện không ác. Bởi do chọn lựa chợt sanh nhiều lỗi, vừa khởi mảy may đã cách xa trời đất. Phàm Thánh vốn đồng một mối, phải quấy đâu có hai đường. Cho nên biết, tội phước vốn không, cứu kính nhân quả chẳng thật. Người người sẵn đủ, kẻ kẻ trọn thành. Phật tánh Pháp thân như hình như bóng, tùy ẩn tùy hiện, chẳng tức chẳng ly. Lỗ mũi duỗi thẳng xuống, chân mày nằm ngang mặt, ở trên mắt mà không dễ gì nhìn thấy. Cần phải tìm xét, đâu chẳng nghe nói “Ba ngàn pháp môn đồng về tấc vuông, hà sa diệu dụng đều ở nguồn tâm” nên nói: Cửa giới cửa định cửa tuệ, ông không thiếu sót, cần phải phản quán nơi mình. Phàm những tiếng ho tiếng tằng hắng, nhướng mày chớp mắt, tay cầm, chân đi, ấy là tánh gì? Biết được tánh này, ấy là tâm gì? Tâm tánh rỗng sáng, cái nào phải, cái nào chẳng phải? Pháp tức là tánh, Phật tức là tâm. Tánh nào chẳng phải là pháp? Tâm nào chẳng phải là Phật? Tức tâm tức Phật, tức tâm tức pháp. Pháp vốn chẳng phải pháp, pháp tức là tâm. Tâm vốn chẳng phải tâm, tâm tức là Phật.
Các nhân giả! Ngày tháng dễ dàng qua, mạng người không chờ đợi, sao cam ăn cháo ăn cơm mà chẳng rõ việc bát việc muỗng? Tham!
* * *
Có vị Tăng bước ra nói:
- Mặc áo ăn cơm là việc tầm thường, đâu cần phải sanh nghi ngờ?
Ông lễ bái xong, đứng dậy hỏi:
- Cõi Thiền không dục là khỏi hỏi, cõi Dục không thiền xin nói cho một câu.
Sư lấy tay điểm trong hư không.
Vị Tăng nói:
- Dùng đàm dãi cổ nhân làm gì?
- Mỗi lần nhắc lại mỗi lần mới.
Vị Tăng thưa:
- Cổ nhân đều hỏi: “Thế nào là Phật, thế nào là Pháp, thế nào là Tăng?” Chỉ đây thế nào? Việc ấy thế nào?
Sư đáp:
- Thế nào? Việc ấy thế nào?
Vị Tăng thưa:
- Trên đàn không dây tri âm ít
Cao vút tiếng đàn cha con hòa...
(Một huyền cầm thượng tri âm thiểu
Phụ tử đàn lai cách điệu cao...)
* * *
Một hôm Sư nghe đồ chúng tụng kinh, bèn hỏi:
- Chúng làm gì?
Có vị Tăng ra thưa:
- Chúng niệm Phật tâm.
Sư bảo:
- Nếu nói là tâm, tâm tức không Phật. Nếu bảo là Phật, Phật tức không tâm. Thế gọi cái gì là tâm?
Vị Tăng ấy đáp không được.
Sư lại hỏi vị Tăng khác:
- Chúng làm gì?
Tăng thưa:
- Niệm Phật.
Sư bảo:
- Phật vốn không tâm thì niệm cái gì?
Tăng thưa:
- Chẳng biết.
Sư bảo:
- Ngươi đã chẳng biết, vậy nói đó là ai?
Tăng không đáp được.
* * *
Gần mãn đời Sư, kiểm những công tác Phật sự: đúc tượng Phật kể cả lớn và nhỏ có hơn một ngàn ba trăm (1300) vị; tạo đại già-lam được hai ngôi; xây tháp được năm ngọn; lập tăng đường hơn hai trăm (200) sở; độ Tăng và Ni hơn một muôn năm ngàn (15000) người; in được một bộ Đại Tạng Kinh; đệ tử đắc pháp hơn ba ngàn (3000) người; thành Đại pháp sư có sáu vị.
Năm Khai Hựu thứ hai (1330) ngày mùng 5 tháng 2, Sư phát bệnh, trong hội giảng kinh Hoa Nghiêm tại An Lạc tàng viện. Đến ngày 11 thì bệnh rất nặng. Ban đêm Huyền Quang đứng hầu, thấy Sư ngủ mà nói ra tiếng: “Hồng! Hồng!” Huyền Quang liền thưa:
- Tôn giả nói mớ chăng?
Sư đáp:
- Ngủ thì nói mớ, chẳng ngủ thì chẳng nói mớ.
Huyền Quang:
- Đâu thể ngủ với thức là một?
Sư bảo:
- Ngủ với thức là một.
Huyền Quang:
- Đâu thể bệnh cùng chẳng bệnh là một?
Sư bảo:
- Bệnh cũng chẳng có can gì y, chẳng bệnh cũng chẳng can gì y.
Huyền Quang:
- Tại sao lại có tiếng nói ra ngoài?
Sư bảo:
- Nghe tiếng gió thổi cây thì thế nào?
Huyền Quang:
- Tiếng gió thổi cây, người nghe chẳng lầm, trong khi ngủ mà nói mớ thì dễ lầm người.
Sư bảo:
- Người ngu cũng vẫn lầm tiếng gió thổi cây.
Huyền Quang:
- Chỉ một bệnh này đến chết cũng chẳng mạnh.
Sư bèn đạp. Huyền Quang lui ra.
Từ đây bệnh lại giảm xuống. Đến ngày 13, Sư trở về viện Quỳnh Lâm nơi phương trượng cũ mà nằm. Đệ tử các nơi dồn về thưa hỏi xin kệ. Sư vẫn đối đáp và tùy người cho kệ, không biết mệt mỏi.
Đến ngày mùng 1 tháng 3, Thượng hoàng Trần Minh Tông đích thân đến thăm bệnh và gọi Thái y đến trị cho Sư.
Đến tối mùng 3 bệnh Sư trở lại nặng.
Huyền Quang thưa:
- Xưa nay đến chỗ ấy, buông đi là tốt hay nắm lại là tốt?
Sư bảo:
- Thảy đều không can hệ.
Huyền Quang:
- Khi thảy đều không can hệ thì thế nào?
Sư bảo:
- Tùy xứ tát-bà-ha.
Đệ tử đồng đến thỉnh:
- Người xưa lúc sắp tịch đều có để kệ dạy đệ tử sao riêng Thầy không có?
Sư quở trách họ. Giây lâu bèn ngồi dậy bảo đem giấy viết lại. Sư viết một bài kệ:
Muôn duyên cắt đứt, một thân nhàn
Hơn bốn mươi năm giấc mộng tràng
Nhắn bảo mọi người thôi chớ hỏi
Bên kia trăng gió rộng thênh thang.
(Vạn duyên tài đoạn nhất thân nhàn
Tứ thập dư niên mộng huyễn gian
Trân trọng chư nhân hưu tá vấn
Na biên phong nguyệt cánh man khoan.)
Viết xong, Sư ném bút, an nhiên thị tịch, thọ bốn mươi bảy tuổi. Đệ tử theo lời phó chúc của Sư, đem nhục thể lên nhập tháp tại Thanh Mai Sơn.
Đến ngày 11 tháng 3, Thái thượng hoàng ngự bút ban hiệu Sư là Tịnh Trí tôn giả, tháp tên Viên Thông, tặng mười lượng vàng để xây tháp và đề một bài thi vãn:
Đã hết duyên trần thõng tay đi
Giác Hoàng kim tuyến được truyền y
Thanh Sơn cỏ mọc che phần mộ
Cây biếc trong sương để xác ve.
Đêm phủ giảng đường trăng kim cổ
Ngày ngày trượng thất khói mờ che
Thân mến biết bao, ôi luyến tiếc!
Nhớ công giáo hóa lệ đầy mi.
(Thùy thủ trần hoàn dĩ liễu duyên
Giác Hoàng kim lũ đắc nhân truyền
Thanh Sơn mạn thảo quan tàng lý
Bích thọ thâm sương xác thuế thiền.
Dạ yểm giảng đường kim cổ nguyệt
Hiểu mê trượng thất hữu vô yên
Tương đầu châm giới ta phi tích
Trác tựu ai chương thế lệ huyền.)
Những tác phẩm của Sư còn lưu truyền lại có:
- Đoạn Sách Lục
- Tham Thiền Chỉ Yếu (Thiền Đạo Yếu Học?)
- Kim Cang Đạo Tràng Đà-la-ni Kinh.
- Tán Pháp Hoa Kinh Khoa Số.
- Bát-nhã Tâm Kinh Khoa
- và một bài kệ thị tịch...
* * *
PHẦN PHỤ.- Chúng tôi trích dịch vài bài trong tập “Thiền Đạo Yếu Học” của Sư để chúng ta hiểu phần nào tư tưởng Sư đối với Thiền đạo.
---o0o---
LỜI KHUYÊN XUẤT GIA TIẾN ĐẠO
(Khuyến xuất gia tiến đạo ngôn)
Kính khuyên chúng xuất gia học đạo, hãy xét kỹ những lời này: Chúng ta nghiệp dày phước mỏng, ra đời chẳng gặp thời chánh pháp, đức Thích-ca đã nhập diệt, đức Di-lặc chưa sanh, Thánh Hiền ẩn bóng, tà pháp thạnh hành, than ôi buồn thay!
Những vị xuất gia, vốn vì đền đáp bốn trọng ân, nghĩ cứu giúp ba đường khổ. Nếu muốn đạt được tâm Phật ý Tổ, biết sanh hiểu tử, trước phải học hai pháp.
Thế nào là hai? Một, phải học ba thứ pháp. Hai, phải học pháp cầu thầy.
Ba thứ pháp là: 1. Rõ tông sư. 2. Biện pháp chân ngụy. 3. Biết thiện ác.
1. Rõ tông sư - Kinh Bổn Hạnh nói: Từ trước Tổ sư thuyết pháp những gì? Có bao nhiêu người đắc đạo nối pháp truyền tông, đến nay thầy nào, chúng nào đáng học?
2.- Biện pháp chân ngụy - Nếu pháp chân là thường giữ giới luật, y pháp tiến tu. Nếu pháp ngụy, như trong lời lục của Đại Huệ nói: Bàn luận ngoại đạo, phỏng đoán nghĩa lý, lập làm tông chỉ, rồi trao truyền cho nhau.
3.- Biết thiện ác - Nếu gần gũi bạn lành là thường khuyên mình sám hối để diệt những tội lỗi trước, siêng năng tìm thiện tri thức, tu hành tinh tấn... Nếu gần gũi bạn ác thì miệng nói xuất gia mà tâm làm theo nghiệp thế tục, tự làm và dạy người làm, tâm không biết hổ thẹn.
Trên là ba pháp nên gần gũi và không nên gần gũi.
Hai, phải học pháp cầu thầy. Như trong Lễ Tán nói: Thường ở trong tùng lâm của thiện tri thức, hằng nằm trong khuôn vức của Tổ sư. Đó là phương pháp chọn bạn tìm thầy vậy.
Nếu người đầy đủ cả hai pháp trên, tức là đạt được tâm Phật ý Tổ và biết sanh hiểu tử.
Này các người! Bên trong đã bỏ cha mẹ, bên ngoài thì không thông Phật pháp, tự xưng là tu hành, vậy tu hành là cái đạo gì? Các người nên xét kỹ lời nói này. Trong kinh Đại Báo Phụ Mẫu Ân nói: “Mười tháng mang thai, ba năm bú sú, ân nào sánh bằng” mà các ngươi còn bỏ được, huống là những kẻ bên ngoài? Thế lại bo bo chấp tình thầy trò, không thể cởi bỏ, không phược trở lại tìm phược, không trói lại cầu trói. Chỉ vì tham cầu lợi dưỡng, chẳng sợ trầm luân. Hoặc đắm mê danh vọng ở đời, hoặc tự mình không hiểu không biết, ấy đều là bọn vô minh vậy.
Từ trước, các Tổ sư hành đạo tu thiền, tâm đồng với hư không, mặc đến mặc đi, hoặc Nam hoặc Bắc, tham thiền hỏi đạo, nhân duyên hội ngộ thì tự lợi lợi tha, ấy mới thật là Phật pháp.
* * *
KHUYÊN CHÚNG THƯỢNG THỪA TAM HỌC
(Thượng thừa tam học khuyến chúng phổ thuyết)
Là người học Phật, trước phải thấy tánh. Thấy tánh, không phải có tánh bị thấy. Nói thấy, là thấy chỗ không thể thấy mà thấy vậy. Cho nên nói thấy, thấy không phải thấy, thì Chân tánh hiện. Tánh thấy là vô sanh, sanh thấy thì chẳng phải có, chẳng có cái tánh thật, mà thấy thật không dời đổi. Thế nên gọi là chân thật thấy tánh.
Sau khi thấy tánh, phải gìn giữ giới cho thanh tịnh. Thế nào là giới thanh tịnh? Nghĩa là trong mười hai giờ, ngoài dứt các duyên, trong tâm không loạn. Vì tâm không loạn động nên cảnh đến vẫn an nhàn. Mắt không vì cái sở duyên của thức mà chạy ra, thức không vì cái sở duyên của cảnh mà chun vào. Ra, vào không giao thiệp nên gọi là ngăn chận. Tuy nói ngăn chận mà không phải ngăn chận. Tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng như thế. Đó gọi là giới Đại thừa, là giới vô thượng cũng gọi là giới vô đẳng đẳng. Tịnh giới nầy, dù Tiểu tăng cho đến bậc Đại tăng đều phải gìn giữ.
Nhân giữ giới vững chắc không động, kế đó mới tập Thiền. Cái yếu chỉ của Thiền định là thân tâm đều xả. Trước tập định tâm, thường tự suy xét: Thân này từ đâu mà đến? Tâm này từ đâu mà có? Tâm không thật có thì từ đâu có thân? Thân tâm đều không thì pháp từ đâu mà có? Pháp không thật có, vì không có cái có, cái có có đó từ đâu mà có? Cái có có đó đã không thì không có pháp có. Mỗi pháp chẳng phải pháp, thì mỗi pháp nương vào đâu? Không có chỗ dựa nương thì pháp không phải mỗi pháp. Pháp này không thật cũng chẳng phải không thật. Chứng được thật pháp, mới hay chứng nhập thiền.
Người tu tập Thiền định không được chấp dụng công, dụng mà không có chỗ dụng, gọi là Thiền thượng thừa. Ngoài tham thoại đầu không cho gián đoạn, miên mật liên tục không có kẽ hở, cũng không điên đảo, không trạo cử cũng không hôn trầm. Phải trong trẻo như viên ngọc lăn trên mâm, phải sáng suốt như gương trên đài. Đến chỗ đất này, đi cũng được, đứng cũng được, ngồi cũng được, nằm cũng được, nói hay nín đều cũng được, có chỗ nào lại không được?
Đã được thế rồi, về sau mới nêu lên những câu ngộ: Tam quan, tam huyền, tam yếu, ngũ vị, tứ liệu giản, tứ tân chủ, tứ chiếu dụng v.v... các cơ quan của Thiền tổ. Bảy phen soi tám phen dùi, nhồi đi ép lại, thấu triệt chân nguyên, chừng đó, mới hay mượn pháp tòa của Phật Đăng Vương, nắm sừng thỏ, nhổ lông rùa, tay hoa một phen chuyển, bốn chúng thảy mịt mờ. Phát sanh vô thượng Diệu Huệ, chiếu soi không cùng. Đối với Tứ vô lượng tâm, Tứ niệm xứ, Tứ vô úy, Bát chánh đạo, Thập lực của Phật, Mười tám pháp bất cọng, cho đến tám muôn bốn ngàn môn đà-la-ni, trần trần sát sát, tất cả môn tam-muội đều từ nơi mình lưu xuất mỗi mỗi đều đầy đủ.
Tuệ đã đầy đủ, ban cho chúng sanh, nguyện lực không cùng tận, tự giác giác tha, tứ sanh và cửu loại, tất cả đều được thấm nhuần. Nếu tuệ mà không định gọi là càn tuệ (tuệ khô), định mà không tuệ gọi là si thiền.
Thiền có chia làm năm:
1) Phàm phu thiền
2) Ngoại đạo thiền
3) Tiểu thừa thiền
4) Đại thừa thiền
5) Thượng thừa thiền.
Đây nói thiền, chính là Thượng thừa thiền vậy. Thiền này, từ đức Phật Tỳ-lô-giá-na trải qua số kiếp bất khả thuyết bất khả thuyết đến đức Phật Thích-ca Mâu-ni. Đức Thích-ca truyền xuống cho hai mươi tám vị Tổ ở Ấn Độ và sáu vị Tổ ở Trung Hoa, rồi Tổ Tổ trao tay cho nhau truyền bá khắp nơi, tính không thể hết được. Các vị đều do giới này, định này, tuệ này mà được chứng ngộ, thật không có pháp nào khác.
Các chú! Các chú đã vào trong chùa làm ông đạo, làm học trò, chỉ cầu danh dự mà chẳng chịu tham đến chỗ, cái gì là chỗ hạ thủ của Phật, Tổ? Cái gì là chỗ dụng tâm của ngoại đạo, Tiểu thừa? Luống để cho ngày lại tháng qua, lăng xăng tìm cầu bên ngoài. Một phen cái chết đến rồi phải làm sao? Đâu là nơi an thân lập mạng? Vả lại, ba ngàn oai nghi tám muôn tế hạnh, chính mình không có một mảy may. Một hôm nào đó, vua Diêm-la đến ắt không thể tha cho ngươi. Ngươi sao chẳng chịu xét lại, chớ lấy các việc trong mộng, rồi bác không nhân quả “mênh mang bát ngát chiêu ương họa”. Như thế chẳng những làm đồi bại tông môn, mà cũng khiến suy tàn chánh pháp.
Ôi! Tôi còn biết nói gì hơn!
---o0o---
Chùa Báo Ân Trung tâm hoằng pháp thế kỷ XIV
Việc Phật hoàng Trần Nhân Tông chọn chùa Báo Ân làm trung tâm hoằng dương Phật pháp đã được cả triều đình cũng như Giáo hội nhất trí và hết lòng ủng hộ. Nhất là từ sau ngày Thiền sư Pháp Loa kế đăng Trúc Lâm đệ nhất tổ, vua Trần Anh Tông đã trích 100 mẫu gia điền ở làng Động Gia cúng vào chùa Báo Ân và cấp người cày để lấy hoa lợi cho chùa...

Tiền đường chùa Báo Ân
Chùa Báo Ân được dựng từ bao giờ
Có ý kiến cho rằng chùa Báo Ân (Sùng Phúc tự) xưa thuộc hương Siêu Loại, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc xã Dương Quang, huyện Gia Lâm, Hà Nội được dựng từ thời Lý Công Uẩn hoặc thời Lý Thánh Tông. Thống kê các chùa được dựng thời Lý (1009-1225) trong sách Đại Việt sử lược1 và Đại Việt sử ký toàn thư2, chúng tôi không thấy có tên chùa này, nhưng có hai chi tiết đáng lưu ý sau:
1- Đinh Sửu, năm thứ 6 (1097) Tống Thiện Thánh, năm thứ 4, mùa thu, tháng 8, sao mọc ban ngày. Bấy giờ trong nước phong đăng (giàu đủ) Thái hậu làm nhiều chùa Phật (Linh Nhân Thái hậu tức Ỷ Lan hoàng thái phi).
2- Ất Mùi, năm thứ 6 (1115), mùa xuân, tháng Giêng, bấy giờ vua không có con trai nên lập nhiều hoàng hậu và cung nhân. (3 hoàng hậu và 36 cung nhân) làm đàn chay để cầu tự. Thái hậu (Linh Nhân) dựng chùa thờ Phật, trước sau hơn 100 sở. (Tục truyền rằng Thái hậu hối lại việc Thượng Dương thái hậu và các thị nữ không tội mà bị chết khi vua Lý Thánh Tông viên tịch, mới làm nhiều chùa Phật ở khu vực hương Siêu Loại) để sám hối và rửa oan.
Với chi tiết thứ 2, có thể, chùa Báo Ân được dựng vào năm 1115 chăng?
Nhưng bằng chứng đáng tin cậy nhất là qua các đợt khai quật rải rác trước đây đến năm 2004, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy các dấu tích kiến trúc với 3 lớp: Trần, Hậu Lê và Nguyễn mà đáng lưu ý hơn cả là dấu vết kiến trúc nhà Trần với nền nhà 6 hàng chân cột, rộng 13 mét. Như vậy có thể xác định, chùa Báo Ân được xây dựng từ thời Trần trải qua nhiều lần xây mới, trùng tu cho tới ngày nay.
Sách Tam Tổ thực lục và Thanh Mai Viên Thông tháp bi cho biết:
1. Trước đây, khi Trần Nhân Tông xuất gia (năm 1299, tháng 8 Thượng hoàng từ phủ Thiên Trường, Nam Định lại xuất gia vào núi Yên Tử tu khổ hạnh)3 sư trụ trì chùa Báo Ân là Trí Thông tự đốt cánh tay mình, từ bàn tay đến tận khuỷu tay, vẫn ung dung không biến sắc. Nhân Tông vào xem, Trí Thông đặt chỗ cho ngài ngồi, lạy và nói: “Thần Tăng đốt đèn đó”. Đốt đèn xong về viện ngủ kỹ, ngủ dậy, chỗ bỏng lửa đều khỏi hết.
2. Mồng một Tết năm Mậu Thân (1308) ông được chính thức làm trụ trì chùa Báo Ân và được giao cho chức vụ Tổ thứ hai của Thiền phái Trúc Lâm...
Liên kết hai sự việc trên và phỏng đoán sư Trí Thông đến thời điểm đó đã trụ trì chùa được khoảng từ 10-15 năm, suy ra chùa Báo Ân mu
Có thể nói chùa Báo Ân hết sức gắn bó với cuộc đời của Trần Nhân Tông, một vị vua nổi tiếng với những võ công (2 lần chống quân Nguyên vào năm 1285 và 1287) văn trị lẫy lừng (đất nước thái bình thịnh trị, biên cương mở rộng về phía Nam v.v…).
Sau ngày Trần Nhân Tông trở thành Đệ nhất Tổ thiền phái Trúc Lâm (gọi tắt là Trúc Lâm), số người xuất gia và theo đạo Phật ngày càng đông, trong đó có nhiều vị trong hoàng tộc và quan lại triều đình. Muốn thụ Tam quy hoặc nghe Trúc Lâm giảng kinh thuyết pháp họ phải vào Yên Tử hoặc lên chùa Vĩnh Nghiêm (huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang) là trung tâm hoằng pháp của Giáo hội, như vậy vừa xa lại mất nhiều thời gian, ảnh hưởng đến công việc của triều đình. Để khắc phục tình trạng trên, Phật hoàng Trần Nhân Tông đã chọn chùa Báo Ân, nơi chỉ cách kinh thành Thăng Long 20 cây số, giao thông thuận lợi: có đường thủy ngược về phía Bắc lên Yên Tử, sang Đông đến Côn Sơn, Kiếp Bạc, về Nam đến Thiên Trường, làm trung tâm hoằng pháp mới.
Năm 1306, Trần Nhân Tông đã lập Pháp Loa làm chủ giảng chùa Báo Ân và cho Huyền Quang làm thị giả.4
Mồng một Tết năm Mậu Thân (1308), Điều ngự Giác hoàng bổ nhiệm sư Pháp Loa trụ trì chùa Báo Ân và giao chức vụ Tổ thứ hai của phái Trúc Lâm cho Sư5.
Ngày 15-10 năm Mậu Thân, nghe tin chị ruột là công chúa Thiên Thuỵ bị bệnh nặng, Trúc Lâm chống gậy xuống núi Yên Tử và chỉ có một thị giả theo hầu. Đi từ mồng 5 tới mồng 10 mới đến kinh đô. Thăm chị xong, ngày rằm lên đường về núi. Trên đường ghé nghỉ đêm tại chùa Báo Ân6.
Sau khi Trần Nhân Tông nhập Niết-bàn ở Yên Tử, vua Anh Tông đã cho đúc hai pho tượng Phật hoàng bằng vàng, một pho để ở chùa Báo Ân, một pho để ở chùa Hoa Yên núi Yên Tử. Trần Anh Tông còn lập ba cơ sở giới đàn ở 3 nơi, đó là chùa Chân Giáo trong hoàng thành, chùa Báo Ân ở Siêu Loại và chùa Phổ Minh ở Thiên Trường, Nam Định7.

Khu mộ tháp
Sự phát triển của chùa Báo Ân
Việc Phật hoàng Trần Nhân Tông chọn chùa Báo Ân làm trung tâm hoằng dương Phật pháp đã được cả triều đình cũng như Giáo hội nhất trí và hết lòng ủng hộ. Nhất là từ sau ngày Thiền sư Pháp Loa kế đăng Trúc Lâm đệ nhất tổ, vua Trần Anh Tông đã trích 100 mẫu gia điền ở làng Động Gia cúng vào chùa Báo Ân và cấp người cày để lấy hoa lợi cho chùa. Việc làm này trở thành phong trào cúng dường tài sản cho Giáo hội.
Năm 1312, Trần Anh Tông cúng dường chùa Báo Ân 5 vạn quan tiền để Pháp Loa bố thí cho dân nghèo. Vua cũng dâng cúng thuyền bè và kiệu phu cho chùa dùng, nhưng Sư từ chối không nhận. Vua lại sai lấy 500 mẫu ruộng từ trang Niệm Như cúng vào chùa làm bất động sản.
Năm Hưng Long thứ 21 (1313), vâng theo di chiếu của Trúc Lâm, Đệ nhị tổ Pháp Loa đã cho xây dựng lại chùa Báo Ân, mọi phí tổn do vua Trần Anh Tông cung cấp. Nhà vua tự thân đến chùa 3-4 lần và sai các cấm binh khiêng gỗ đổ đất. Ngài còn lấy những bảo vật thờ tự Tam bảo của mẹ mà cúng dường vào Phật sự này. Cùng năm đó, Hoàng thái hậu Bảo Từ cúng vào chùa 300 mẫu gia điền.
Cuộc trùng tu này tới năm 1314 mới hoàn thành với 33 kiến trúc nào Phật điện, gác kinh, nhà Tăng, kho tàng. Cùng năm này nhân dịp lên Thái thượng hoàng, Trần Anh Tông ban cho chùa Báo Ân 500 hòm kinh Đại tạng, đúc 3 pho tượng Phật, mỗi tượng cao 17 xích (hơn 5m). Pháp Loa đặt tên cho các kiến trúc, chùa thì gọi là Nhuỵ (Nhị) Hưng Điện, Anh Tông tự tay viết chữ ban cho.
Năm 1315, Thái thượng hoàng Trần Anh Tông lấy 30 mẫu ruộng của người cung nữ họ Phạm đã quá cố cúng vào chùa Báo Ân.
Với vị trụ trì là Thiền sư Pháp Loa đức cao đạo trọng, cảnh chùa ngày một trang nghiêm hoành tráng, chùa Báo Ân đã hấp dẫn rất nhiều người đến quy y, trong đó có nhiều vị trong hoàng tộc, như: Hoàng thái hậu Bảo Từ, Tư đồ Văn Huệ Vương, Uy Huệ Vương (thụ Bồ-đề giới và làm phép Quán đỉnh) v.v… cũng như đến chùa nghe Thiền sư giảng kinh, luật, luận.
Cùng với viện Quỳnh Lâm, Đông Triều, Quảng Ninh (hoàn thành cuối năm 1314) và chùa Vĩnh Nghiêm, Bắc Giang, chùa Báo Ân trở thành một trong ba trung tâm Phật giáo lớn nhất của Giáo hội Trúc Lâm.
Về hoằng dương Phật pháp
Tại chùa Báo Ân, ngoài việc giảng dạy các kinh phổ thông như kinh Kim cương, Lăng nghiêm, Viên giác, và các bộ lục như Truyền đăng lục (1311), Pháp Loa còn phải giảng các kinh Niết-bàn, Lăng-già, Pháp hoa và nhất là kinh Hoa nghiêm.
Năm 1322 ông giảng toàn bộ kinh Hoa nghiêm; khóa giảng có tới trên 1.000 người đi nghe.
Năm 1323 ông giảng hội thứ ba và thứ tư kinh Hoa nghiêm.
Tại sao việc học kinh Hoa nghiêm đã trở thành một phong trào trong Thiền giới lúc bấy giờ?
Kinh Hoa nghiêm phát xuất từ Ấn Độ. Nội dung cơ bản là “Pháp giới duyên khởi”, “Viên tín” “Viên giải”, “Viên hành”, “Viên chứng”. Đó là kinh Phật bàn về thế giới quan tinh vi và tập trung nhất, coi thế giới là sự hiển hiện của Tỳ-lô-xá-na Phật (Vairocana). “Nhất vi trần ánh thế giới” (trong hạt bụi có cả thế giới).
Vì kinh quá cao siêu nên hiếm người tiếp thu được, và tất nhiên việc phát triển càng khó hơn nữa. Nhưng khi truyền sang Trung Quốc (và sau đó sang Nhật Bản), do tư tưởng kinh thích hợp với người Trung Quốc nên phát triển mạnh trở thành một tông phái. Nguyên nhân của sự việc này là, trước khi kinh này được truyền sang, tư tưởng Lão Trang thịnh hành ở Trung Quốc, có cái nhìn về vũ trụ gần giống với tinh thần Hoa nghiêm, nên giới trí thức đương thời dễ tiếp thu được tư tưởng Hoa nghiêm.
Tuy nhiên cần khẳng định rằng kinh Hoa nghiêm phát triển được là nhờ các vị cao đức thông suốt được áo nghĩa Hoa nghiêm và biết kết hợp tinh thần Lão Trang để triển khai thành tư tưởng chỉ đạo của tông này.
Tư tưởng Lão Trang quan niệm mọi sinh hoạt của vũ trụ vận hành theo lý “Tự nhiên”, tự nhiên là “Vô”. Và tính chất của “Vô” là bản thể của vũ trụ. Người trí thức chịu ảnh hưởng Lão Trang có thể thấy vấn đề nói trên của họ sáng hơn khi tiếp thu tư tưởng Hoa nghiêm do các vị cao tăng lý giải; theo đó, mọi sự, mọi vật đều bình đẳng, trong tốt có xấu, trong xấu có tốt. Tất cả sinh hoạt tương quan tương duyên chằng chịt trong pháp giới.
Người chứng đạo thấy rõ sự tác động của mối tương quan sâu xa ấy, mà thuật ngữ gọi là lý sự vô ngại pháp giới, thì sẽ hóa giải được tất cả. Còn chướng ngại, vướng mắc, không dung thông thì trở thành đối địch, đối đầu, từ đó phiền não trùng trùng duyên khởi8.
Tình hình giới quý tộc (trí thức) nhà Trần lúc bấy giờ cũng giống giới trí thức thời nhà Đường thế kỷ VII - VIII. Vì vậy, ngay cả các vị trong hoàng tộc như công chúa Bảo Vân, Bảo Từ hoàng hậu, Văn Huệ Vương và bá quan triều đình nhà Trần là những gương mặt trí thức lúc đó đều đến chùa nghe Pháp Loa giảng kinh Hoa nghiêm9.
Ngoài Pháp Loa, Đệ tam Tổ Trúc Lâm Huyền Quang năm 1315 từng đến chùa Báo Ân giảng kinh Lăng nghiêm.
Nhằm đưa giáo lý Phật-đà thích nghi với thực tiễn, năm 1322, Pháp Loa cho khắc bản cuốn Tứ phần luật để in và phổ biến cho giới Tăng sĩ học tập. Ông thỉnh cầu hai vị sư huynh là Tông Cảnh (trụ trì ở Tiên Du) và Bảo Phác (trụ trì chùa núi Vũ Ninh) về chùa Báo Ân mở những lớp dạy về Tứ phần luật cho Tăng sĩ và in 5.000 bản Tứ phần luật phát cho các Tăng sinh.
Phật sự này không những góp phần nâng cao đạo hạnh giới Tăng sĩ mà còn làm trong sạch Tăng đoàn, giúp cho việc quản lý Giáo hội ngày một tốt hơn.
Những sự kiện nói trên cho thấy những hoạt động sôi nổi của chùa Báo Ân - một trong những trung tâm Thiền của Giáo hội Trúc Lâm ở thế kỷ XIII và nửa đầu thế kỷ XIV.
---o0o---
Chùa Vĩnh Nghiêm (Chùa Đức La)
![Khám phá Bắc Giang] Chùa Đức La, viên ngọc sáng của nền Phật Giáo](https://postumtravel.vn/wp-content/uploads/2022/04/chua-duc-la-10.jpg)
Chùa Vĩnh Nghiêm hay chùa Đức La ở xã Đức La, phủ Lạng Giang, trấn Bắc Giang, nay thuộc tỉnh Bắc Giang.
Theo tục truyền, chùa Vĩnh Nghiêm được lập thời vua Lý Thái Tổ (1010-1028). Chùa được xây dựng bên bờ sông Chương, cách thị xã Bắc Giang 18km.
Chùa Vĩnh Nghiêm bắt đầu nổi tiếng khi phái thiền Trúc Lâm phát triển mạnh, tức vào thời ba vị Tổ Giác Hoàng, Pháp Loa và Huyền Quang hoằng hóa.
Tôn giả Pháp Loa trụ trì chùa Vĩnh Nghiêm một thời gian, biến chùa này thành trung tâm hành chánh, quản trị Tăng chúng của phái thiền Trúc Lâm đời Trần, lập hồ sơ và lưu trữ Tăng tịch thời Trần. Chùa Vĩnh Nghiêm là trung tâm lãnh đạo hoạt động Phật sự của phái thiền Trúc Lâm, bên cạnh chùa Vân Yên và chùa vùng núi Yên Tử là quê hương tinh thần của phái thiền này.
Năm 1330, Tổ Pháp Loa viên tịch. Tổ thứ ba của phái thiền Trúc Lâm là Thiền sư Huyền Quang vẫn tiếp tục theo hoạt động của Tổ Pháp Loa.
Sau khi nhà Trần suy yếu, chùa Vĩnh Nghiêm suy hoại dần. Khoảng niên hiệu Diên Ninh (1454-1459) đời vua Lê Nhân Tông, có quan nội thị Tinh Thủ-Tăng tự là Thượng sĩ Chí Tín đã trùng tu lại chùa Vĩnh Nghiêm.
Vào thời Hậu Lê, Phật giáo suy thoái, chùa cũng chịu chung số phận.
Khoảng niên hiệu Quang Hưng (1578-1599), đời vua Lê Thế Tông, hai cư sĩ Nguyễn Tự Nhiên và Nguyễn Phúc Mạch vận động quyên góp trùng tu lại chùa.
Vào thời nhà Mạc, chùa Vĩnh Nghiêm trở nên nguy nga tráng lệ do công đức hưng công đại trùng tu chùa của Thái bảo Quốc công Mạc Ngọc Liên và Công chúa Trưởng Phúc Thành.
Trong thời Lê Trung hưng (1593-1788), chiến tranh giữa quân nhà Mạc và quân Lê chúa Trịnh vẫn xảy ra ác liệt ở vùng Lạng Sơn đến vùng Bắc Giang và Yên Tử, nên chùa Vĩnh Nghiêm cũng bị tàn phá.
Năm Cảnh Hưng thứ mười (1749), đời vua Lê Hiến Tông, Ni sư Diệu Minh, tên tục là Vũ Thị Lương, đứng ra trùng tu lại chùa.
Sau khi vua Gia Long lên ngôi, chiến tranh chấm dứt, đất nước yên bình, sinh hoạt Phật giáo hưng thịnh trở lại. Chùa Vĩnh Nghiêm cũng được Phật tử ra công tu sửa lại.
Năm Tự Đức thứ hai (1849), vị Tổ Phù Lãng Trung đến trụ trì chùa Vĩnh Nghiêm, việc hoằng dương Phật pháp được thực hiện trở lại. Kế đến, là Hòa thượng Tịnh Phương sa môn Pháp Huy, tự Tâm Viên, bắt đầu thuyết pháp tại chùa, việc hoằng hóa được mở rộng, sinh hoạt Phật sự tại chùa phát triển.
Năm Thành Thái thứ nhất (1889), Hòa thượng Tâm Viên ngọa bệnh nên cử đệ tử là hai Thiền sư Thanh Tuyền làm chánh Giám tự và Thiền sư Thanh Hanh làm Phó giám tự. Ngày 25 tháng 5 năm đó, Hòa thượng Tâm Viên thị tịch.
Năm 1907, Hòa thượng Thanh Hanh ra công trùng tu chùa, đồng thời ra sức lo in lại kinh sách Phật giáo, mướn thợ khắc bản gỗ để in kinh.
Vào thập niên 1920-1930, trong phong trào phục hưng Phật giáo Việt Nam, Hòa thượng Thanh Hanh đã tích cực hoạt động để chấn hưng Phật giáo ở Bắc Kỳ. Năm 1935, Hội “Bắc Kỳ Phật giáo” được thành lập, chư sơn thiền đức miền Bắc đồng suy tôn Hòa thượng Thanh Hanh làm Pháp chủ.
Hòa thượng Thanh Hanh nhiệt tâm chăm lo việc Phật sự, tích cực hoằng dương Phật pháp, ra công khắc bản in lại nhiều kinh điển Phật và các sách thiền học Việt Nam, nhất là các sách của phái thiền Trúc Lâm như: Thượng Sĩ - Tuệ Trung ngữ lục, Tam Tổ hành trạng, Khóa hư lục…
Năm 1936, Hòa thượng Thanh Hanh viên tịch tại chùa Vĩnh Nghiêm, hàng vạn Tăng Ni, Phật tử tham dự tang lễ.
|