TS Từ Đạo Hạnh

Personal Information

Danh Tánh
TS Từ Đạo Hạnh - Đời thứ 12 Dòng Tỳ Ni Ða Lưu Chi Việt Nam
Gender ♂️ Male

Hành Trạng

Additional Info

Thiền Sư Từ Đạo Hạnh

(1072 - 1116)

Thiền sư Từ Đạo Hạnh: Từ Lịch sử đến huyền thoại - Chùa Tự Tâm

---o0o---

I. Sự Tích Thiền Sư Từ Đạo Hạnh (? - 1116)
(Tổ Khai Sơn Chùa Thầy)

Thiền sư Đạo Hạnh tên tục là Từ Lộ, con của Tăng quan Đô án tên là Từ Vinh, quê ở hương Yên Lãng hay làng Láng, huyện Từ Liêm (nay thuộc quận Đống Đa, thủ đô Hà Nội).
Thời niên thiếu:
Từ Lộ lúc còn nhỏ rất có hiếu, tính tình hào hiệp, có chí lớn thơờng thân thích với nho sĩ Phí Sinh, đạo sĩ Lê Toàn Nghĩa, người trong phường hát là Vi Ất. Ban ngày, Từ Lộ cùng các bạn thường đánh cờ, đá cầu, thổi sáo, hát xướng...; ban đêm, Từ Lộ mới cần cù đọc sách, chăm chỉ học hành.Vì vậy, thân phụ hiểu lầm tưởng Từ Lộ lo ham chơi, lười biếng, không chịu học hành nên thơờng quở mắng. Một đêm, Từ Vinh bất ngờ vào phòng Từ Lộ để dò xét việc học của con, thấy ngọn đèn đã tàn, sách vở chất đầy bên cạnh, Từ Lộ đang tựa vào án ngủ say, trong tay đang cầm quyển sách, tàn đèn rơi đầycả đầy mặt bàn. Ông mới biết là Từ Lộ vẫn chăm lo học hành nên không còn lo lắng và không quở rầy con nữa.
Sau đó triều đình mở khoa thi Tăng quan, Từ Lộ dự thi và được trúng tuyển, có lẽ từ đó có pháp danh là Đạo Hạnh.
Năm sư Đạo Hạnh hai mươi lăm tuổi, cha bị sư Đại Điên giết chết.

I. Từ Vinh Bị Sư Đại Điên Giết
Từ Vinh là một vị tăng quan, tu học có nhiều pháp thuật, biết phép ẩn thân (tàng hình), biến hóa thành một người nào khác hay con vật nào cũng được...
Từ Vinh có vợ là người con gái họ Tăng ở hương Yên Lãng nên cư ngụ ở đó, sinh con là Từ Lộ. Từ Vinh đậu khoa thi Bạch Liên, được vua nhà Lý phong chức Tăng quan Đô án, chức khá cao trong triều đình.
Gần nhà của Từ Vinh có phủ của Diên Thành Hầu ở bên bờ sông Hồng (sông Cái). Diên Thành hầu là em của vua, có nhiều cung phi đẹp. Từ Vinh biến thành Diên Thành hầu để tư thông với một nàng hầu trẻ đẹp của Diên Thành hầu. Dinh phủ của Diên Thành hầu rộng lớn, xinh đẹp, nhưng được quân lính canh gác nghiêm nhặt. Tuy nhiên, nhờ có phép “ẩn thân” nên Từ Vinh ra vào phủ mà không ai thấy biết.
Vào những đêm Diên Thành hầu không có đến với nàng hầu trẻ đẹp đó, Từ Vinh dùng phép ẩn thân, vào phòng của nàng rồi biến thành Diên Thành hầu để giao hoan, ăn nằm với nàng. Sáng ra Từ Vinh lại tàng hình đi ra khỏi dinh phủ mà không ai biết, nàng hầu cũng tưởng là mình ăn nằm với chồng.
Một hôm, Từ Vinh giả Diên Thành hầu vào ngủ với nàng hầu, vừa ra khỏi phòng thì Diên Thành hầu vào phòng của nàng. Nàng hầu ngạc nhiên hỏi: “Sao phu quân vừa ra lại trở vào?”. Diên Thành hầu ngạc nhiên, hỏi cặn kẽ mới biết được là có người giả làm Diên Thành hầu để thông dâm với nàng hầu. Diên Thành hầu biết người này có pháp thuật cao cường nên phải nhờ sư Đại Điên tìm cách bắt thủ phạm. Sư Đại Điên cũng là người có pháp thuật cao, nhiều lần trổ tài bắt ma trừ quỷ nên được vua và Hoàng gia cùng triều thần tin cậy.
Sau khi nghe kể rõ sự việc, sư Đại Điên đưa cho Diên Thành hầu một sợi chỉ ngũ sắc (năm màu), một lá bùa và dặn rằng: “Ngài giao sợi chỉ này cho nàng hầu, chờ có người giả làm ngài vào phòng thì lén cột sợi chỉ này ngang lưng, trước đó cho rắc một lớp tro mỏng ở cửa buồng, khi nào thấy trên lớp tro có dấu chân thì dùng lá bùa dán lên cửa, rồi cho người đến rước sư”.
Diên Thành hầu về phủ làm đúng lời sư Đại Điên dặn. Đêm hôm đó hai tên gia nô canh gác phía ngoài của phòng nàng hầu thấy có dấu chân người đi vào phòng mà không thấy người, hai người này dán lá bùa lên cửa rồi cấp tốc phi báo cho chủ biết, Diên Thành hầu cho rước sư Đại Điên đến.
Từ Vinh đang ở trong buồng với nàng hầu của Diên Thành hầu, bỗng nghe có tiếng người lao xao, biết đã lộ việc rồi nên niệm chú biến thành con gián để bay ra khỏi buồng, nhưng cửa đã bị bùa trấn ếm rồi, không thoát ra được, phải chui trốn vào khe vách. Trong lúc đó Diên Thành hầu và sư Đại Điên cầm đèn đuốc vào phòng tìm kiếm một lúc không thấy, nhưng sau đó nhờ thấy sợi chỉ ngũ sắc ở khe vách, kéo sợi chỉ ra thì thấy con gián bị buộc chỉ ngang hông. Sư Đại Điên cầm con gián trên tay, hỏi:
- Ngươi là ai?”.
Từ Vinh biết là mưu gian đã bị lộ nên van xin tha mạng, đáp:
- Tôi là Từ Vinh, xin Hòa thượng nghĩ đến tình đồng triều và đồng đạo mà tha tội chết cho tôi.
Sau khi nghe van xin như thế, sư Đại Điên nghĩ thầm: Pháp thuật của Từ Vinh cao cường không kém gì ta. Nếu không sa cơ vào chỉ ngũ sắc và lá bùa trấn ếm thì không dễ gì bắt được Từ Vinh. Nếu tha cho hắn sau này có thể sẽ nguy hiểm cho ta.Vì vậy, ta phải giết chết để trừ hậu hoạn. Nghĩ như thế nên sư nói:
- Mi là kẻ tu hành, lại được triều đình trọng dụng, mà cố tình phá giới, làm việc tà dâm, phạm tội chồng chất, không thể tha thứ được. Thôi, ta hóa kiếp cho mi để kiếp sau lo tu tỉnh lại.
Từ Vinh chưa kịp nói gì nữa thì sư Đại Điên bóp nát con gián. Xác con gián vừa rơi xuống đất thì hiện nguyên hình của Từ Vinh. Đại Điên đá vào xác của Từ Vinh nói:
Kiếp này đã vụng đường tu
Hãy đền tội lỗi đền bù kiếp sau.
Sư Đại Điên nói với Diên Thành hầu:
- Thế là trừ được một con quỷ dâm dục.
Hầu bảo người nhà đem xác Từ Vinh thả xuống sông Tô Lịch, thưởng cho sư Đại Điên mười lượng vàng và tiễn sư về.
Sáng hôm sau, sư Đại Điên đang tụng kinh, người nhà của Diên Thành hầu hốt hoảng chạy đến báo tin:
- Bạch sư cụ, cái thây hôm qua không chịu trôi, nó cứ đứng sừng sững trên mặt sông chỉ tay vào phủ Diên Thành hầu cặp mắt nhìn trừng trừng, trông rất ghê sợ. Xin mời sư cụ đến ngay cho.
Sư Đại Điên đến trước phủ Diên Thành hầu, chỉ tay vào xác Từ Vinh và nói:
- Nhà sư không nên sân hận quá một đêm, sống chết chỉ là một giấc chiêm bao dài”.
Tự nhiên, xác Từ Vinh ngã xuống nước và trôi đi...

II.Đạo Hạnh Tu Luyện Để Trả Thù Cho Cha
Đêm Từ Vinh bị sư Đại Điên giết chết, Đạo Hạnh được cha báo mộng cho biết sự tình và nhắc đi nhắc lại là phải giết sư Đại Điên để trả thù cho bằng được mới thôi.
Sáng tỉnh dậy, Đạo Hạnh hốt hoảng đi tìm cha và tìm thấy xác cha trôi trên sông Tô Lịch. Nóng lòng trả thù cha, Từ Đạo Hạnh xách một cây côn đi tìm sư Đại Điên. Khi gặp sư, Đạo Hạnh quơ côn định đập vào đầu sư, bỗng nghe tiếng trên hư không: “Đừng!Đừng!”. Từ Lộ sợ hãi, bỏ gậy xuống nuốt hận mà về nhà. Đạo Hạnh nghĩ rằng: Muốn trả thù được chỉ có cách là phải tìm thầy học đạo, có đủ pháp thuật mới trừ được kẻ thù lợi hại, nhiều tài phép như sư Đại Điên. Từ Đạo Hạnh thề quyết bao giờ đắc đạo mới trở về nhà.
Một đêm, Từ Đạo Hạnh ngồi trong ngôi miếu cổ ở vùng rừng núi cao, đốt lửa để sưởi ấm, bỗng thấy có hai tăng sĩ ghé vào miếu trú mưa. Cả ba bắt đầu làm quen mới biết hai vị tăng là sư Không Lộ họ Dương và sư Giác Hải họ Nguyễn; hai sư này định đi qua Ấn Độ để tu học Phật pháp. Sau đêm đó, cả ba kết bạn. Đạo Hạnh lớn tuổi hơn cả làm huynh trưởng, kế đó là Không Lộ, nhỏ nhất là Giác Hải.
Cuộc hành trình của ba huynh đệ đi qua Ấn Độ để tu học rất xa và rất gian nan nguy hiểm. Họ phải đi bộ leo bao nhiêu núi cao, qua bao nhiêu rừng rậm đầy thú dữ, vượt bao sông suối... Mặc cho đói khát, ốm đau, rách rưới..., họ vẫn không nản lòng.
Một hôm, ba huynh đệ đến xứ Kim Xỉ (xứ Răng vàng, có lẽ là nước Miến Điện ngày nay) gặp một con sông rất rộng. Cả ba đang tìm cách để qua sông, bỗng thấy một chiếc thuyền độc mộc (thuyền làm bằng một nửa thân cây nhỏ) của một ông lão. Ba huynh đệ hỏi đường qua xứ Phật để học đạo, ông lão bảo qua bờ bên kia sông, đi không bao lâu nữa sẽ đến nơi học đạo.
Ông lão hỏi mục đích khi tìm đường qua xứ Phật học đạo. Không Lộ và Giác Hải thưa rằng: “Qua xứ Phật học đạo để tìm đường giải thoát khỏi kiếp người phải chịu nhân quả luân hồi”. Còn Đạo Hạnh đáp rằng: “Đi học đạo để đủ pháp thuật trả thù cho cha”. Ông lão bảo: “Thuyền nhỏ chỉ chở được có hai người”. Ông lão chở Không Lộ và Giác Hải qua trước rồi sẽ trở lại chở Đạo Hạnh sau. Nhưng Đạo Hạnh chờ mãi vẫn không thấy ông lão trở lại rước, chưa biết làm sao? Bỗng nhiên, Đạo Hạnh thấy một bà lão gánh thùng xuống sông để gánh nước, nhưng thùng lại không có đáy. Từ Đạo Hạnh biết bà là người phi phàm nên quỳ xuống lạy và xin bà truyền pháp cho. Bà cho biết ông lão chèo thuyền là Bồ tát hóa thân.Vì Đạo Hạnh có ý muốn học đạo trả thù nên không được cho qua xứ Phật. Bà giải thích thêm: “Nếu lấy oán mà báo oán thì không tránh khỏi nghiệp quả, nhưng vì lòng hiếu thảo và thành khẩn cầu pháp nên ta cũng truyền cho”. Bà dạy Đạo Hạnh trì chú Đà La Ni; Đạo Hạnh chuyên chú tu học nên đạt được một số thần thông.
Một hôm Từ Đạo Hạnh định thần, biết được là Không Lộ và Giác Hải đã đắc pháp và sắp về đến, dùng phép biến hóa thành cọp để dọa bạn chơi. Khi Không Lộ và Giác Hải vừa đến khu rừng, một con cọp lớn từ trong bụi rậm phóng ra cản đường. Nhưng Không Lộ và Giác Hải cũng có thần thông nên biết được; Giác Hải đi trước, nên bảo với “cọp” rằng:
Thôi đừng đùa giỡn chi nhau
Muốn làm kiếp ấy, rồi sau được làm.
Đạo Hạnh được hai em trợ lực nên tỉnh ngộ, thấy được quả nghiệp kiếp sau dù chỉ là đùa dọa mà thôi.
Ba huynh đệ dùng thần thông trở về nước Việt.
Thiền sư Không Lộ về hoằng hóa ở Chùa Chúc Thánh trên núi Phả Lại , Chùa Hàm Long trên núi Lam Sơn ở huyện Quế Dương, trấn Kinh Bắc (nay thuộc tỉnh bắc Ninh ) và núi Sài Sơn, nên núi này còn có tên là núi Không Lộ. Sau đó, sư về trụ trì chùa Nghiêm Quang (Chùa Keo) ở thôn Giao Thủy, huyện Vũ Thơ (tỉnh Thái Bình ngày nay) . Viên tịch vào ngày 26 tháng 3 năm Giáp Tuất (1094), thọ 79 tuổi (sinh ngày 15 tháng 9 năm Bính Thìn (1016).
Thiền sư Giác Hải về hoằng hóa ở chùa Diên Phúc, thôn Hành Thiện (nay thuộc xã Xuân Hồng, huyện Xuân Thủy, tỉnh Nam Định). Sau đó, Thiền sư Minh Không (1066 - 1141) kế thế trụ trì chùa này.
Từ Đạo Hạnh vào núi Sài Sơn ẩn tu: ngày ngày chuyên tâm trì chú Đại Bi Đà La Ni, mỗi ngày trì tụng được 18.000 bài chú này. Sau 100 ngày, một vị thần hiện ra trước mặt thưa rằng: “Đệ tử là Tứ Trấn Thiên Vương, cảm động công đức của sư trì tụng kinh Đại Bi nên đến hầu để sư sai phái”.
Từ Đạo Hạnh biết đã đạt được pháp thuật, có thể trả thù cha được rồi, nên đến nhà sư Đại Điên. Khi đi đến cầu Quyết, thở ném gậy xuống giữa sông đang chảy xiết, cây gậy lại trôi ngược dòng nước, đến cầu Tây Dương (cầu Giấy ở Hà Nội ngày nay) thì dừng lại. Đạo Hạnh mừng thầm: Pháp ta đạt được rồi! Đạo Hạnh đi đến nhà sư Đại Điên. Sư thấy Đạo Hạnh, hỏi: “Ngươi không nhớ chuyện ngày trước sao?”. Đạo Hạnh ngước nhìn lên trời, không thấy gì, bèn vung gậy đánh vào đầu Đại Điên, Đại Điên phát bệnh rồi chết.

III.Thiền Sư Đạo Hạnh
Từ đó hận thù đã rửa sạch, cảm thấy cuộc đời là vô thường, khổ, não, Từ Đạo Hạnh buông bỏ pháp thuật, quyết chí tu hành chân chánh theo đạo Phật, vân du khắp nơi để tìm thầy tu tập thiền đạo.
Nghe đồn Thiền sư Trí Huyền đang hoằng hóa ở Thái Bình, Đạo Hạnh đến tham vấn, Đạo Hạnh đọc bài kệ để tham hỏi về chân tâm:
Cửu hỗn phàm trần vị thức kim
Bất tri hà xứ thị chân tâm?
Nguyện thùy chỉ đích khai phương tiện
Liễu kiến như như đoạn khổ tầm.
Tạm dịch:
Lẫn trong phàm trần chưa biết vàng
Không biết chân tâm ở chốn nào?
Cúi mong chỉ thẳng, bày phương tiện
Thấy rõ như như hết khổ tầm.
Thiền sư Trí Huyền đáp:
Ngọc lý bí thanh diễn diệu âm
Cá trung mãn mục lộ thiền tâm
Hà sa cảnh thị Bồ đề cảnh
Nghĩ hướng Bồ đề cách vạn tầm.
Tạm dịch:
Trong ngọc ẩn thanh tiếng diệu huyền
Bên trong mắt rõ lộ tâm thiền
Biết bao cảnh Thực cõi Bồ đề
Cầu tìm Bồ đề xa vạn dặm.
Từ Đạo Hạnh vẫn còn mê mờ chưa hiểu thấu yếu chỉ của Thiền.
Lại đến chùa Pháp Vân tham vấn Thiền sư Sùng Phạm. Đạo Hạnh cũng hỏi:
- Thế nào là chân tâm?.
Thiền sư Sùng Phạm hỏi lại:
- Cái gì không phải là chân tâm?.
Đạo Hạnh chợt bừng ngộ, hỏi thêm rằng:
- Phải gìn giữ như thế nào?.
Sùng Phạm bảo:
- Đói ăn,khát uống!.
Đạo Hạnh ngộ được yếu chỉ, lạy tạ cáo từ trở về. Từ đó, Thiền sư Đạo Hạnh càng tăng tiến trên đường tu thiền, tâm thiền có thể cảm hóa muôn vật, khiến cho chim muông, thú dữ, rắn rít... đều qui phục, có thể dùng chú thuật của Mật tông để trị bệnh hay cầu mưa cầu gió...
Thiền sư Đạo Hạnh tu thiền trong am tranh gần trên đỉnh núi Sài Sơn, nhiều người biết tiếng, đến tham hỏi Phật pháp và pháp tu thiền, nên gọi Am tranh đó là “Am Từ Công” (am của ngài họ Từ). Ngoài ra, ở phía chân núi có một ngôi chùa lớn với tên là “Thiên Phúc” để sư giáo hóa đồ chúng.
Một hôm, có vị Tăng đến tham hỏi: “Đi đứng nằm ngồi đều là tâm Phật, vậy thế nào là tâm Phật?”.
Thiền sư Đạo Hạnh đáp bằng bài kệ:
Tác hữu trần sa hữu
Vi không nhất thiết không
Hữu không như thủy nguyệt
Vật trước hữu không không
Tạm dịch:
Bảo có muôn sự đều có
Bảo không tất cả đều không
Có, không như trăng đáy nước
Chớ mắc trước “có” cùng “không”.
Sư lại tiếp:
Nhật nguyệt tại nham đầu
Nhân nhân tận thất châu
Phú nhân hữu câu tử
Bộ hành bất kỵ câu
Tạm dịch:
Nhật nguyệt tại đầu non
Người người đều mất ngọc
Kẻ giàu có ngựa giỏi
Bộ hành không cỡi ngựa

IV.Từ Đạo Hạnh Triệt Giác Hoàng (Hóa Kiếp Của Đại Điên)
Năm Hội Tường - Đại Khánh thứ ba (1112), vua Lý Nhân Tông đã 47 tuổi mà chưa có Hoàng tử để nối ngôi, vua xuống chiếu cho chọn con trai của các anh em của vua để lập làm Hoàng tử, sau này kế ngôi vua.
Tháng Ba năm đó, quan ở phủ Thanh Hóa dâng biểu tâu về triều đình sự việc sau: Ở vùng bờ biển Sa Đinh, có một đứa trẻ hết sức linh dị, mới ba tuổi mà nói năng lý luận như người lớn, lại tự xưng nó chính thực là con của vua, tự đặt tên hiệu là Giác Hoàng. Mọi việc làm của vua ở triều đình, đứa bé đều biết hết.
Vua không có Hoàng tử, nghe tâu như thế nên sai sứ giả đến nơi để xét nghiệm. Sứ giả thấy đứa bé kỳ lạ, đúng như quan địa phương tâu trình, nên cho rước về chùa Báo Thiên ở kinh đô Thăng Long. Vua thấy đứa bé thông minh khác thường cũng thương mến và muốn lập làm thái tử, nhưng trong Hoàng tộc và triều thần can ngăn việc đó và đề nghị: Nếu quả thực đứa bé này linh dị thì chỉ nên cho nó “thác sinh” vào cung phi trong nội cung, sau khi sinh mới lập làm thái tử. Vua nghe theo lời tâu, cho thiết lập đàn tràng trong bảy ngày để làm “phép thác sinh”, đầu thai vào cung phi của vua để sau sinh ra Hoàng Tử.
Thiền sư Đạo Hạnh nghe câu chuyện, đoán biết đứa bé có tên là Giác Hoàng đó là kiếp sau của sư Đại Điên. Sư Đại Điên muốn đầu thai làm con vua để trả thù Đạo Hạnh. Ngoài ra, đứa bé này làm mê hoặc lòng người, sau này lớn lên sẽ tung hoành, làm loạn chánh pháp. Sư Đạo Hạnh nhờ chị giả làm người đi xem đàn tràng, lén đem các xâu chuỗi hạt mà sư đã kết ấn treo lên rèm cửa để trấn ếm việc thác sinh. Đàn tràng kéo dài được ba ngày, đứa bé Giác Hoàng bỗng kêu đau và bảo rằng: “Ta đi quanh khắp Hoàng thành, nhưng ở đâu cũng có lưới sắt, ta muốn vào Hoàng thành để thác sinh trong cung nội nhưng không vào được. Hạ thần bị Đạo Hạnh trấn ếm phải chịu đau rồi chết, không thể thác sinh làm con vua được, mong bệ hạ trị tội Đạo Hạnh”. Vua nghe theo, ra lệnh cho bắt Đạo Hạnh giam vào lầu Hưng Khánh để triều thần điều tra và nghị tội. Một số triều thần tâu rằng: “Bệ hạ không có Hoàng Tử, phải cầu Giác Hoàng đầu thai làm con, vậy mà Từ Lộ dùng bùa phép cản trở, xin bệ hạ cho xử chém để trị tội làm gương cho thiên hạ”.
Nhưng em của vua là Sùng Hiền hầu tâu rằng: “Nếu Giác Hoàng tài giỏi, có phép thần thông thì Từ Đạo Hạnh đâu thể cản trở và sát hại được. Nếu Giác Hoàng bị chết, không thác sinh được, chứng tỏ rằng Từ Đạo Hạnh hơn Giác Hoàng nhiều. Vì vậy, thần trộm nghĩ: Đáng lẽ bắt tội Từ Lộ thì nên cho y “thác sinh” làm Hoàng tử để nối ngôi vua”.
Vua nghe theo lời của Sùng Hiền hầu, tha tội cho Từ Đạo Hạnh. Sau khi được tha, Thiền sư Đạo Hạnh đến tư dinh của Sùng Hiền Hầu tạ ơn. Sùng Hiền Hầu đề nghị là sư sẽ thác sinh làm con của Sùng Hiền hầu để nối ngôi vua.

V. Từ Đạo Hạnh thác sinh làm con Sùng Hiền Hầu, sau làm vua Lý Thần Tông
Sau khi chấp nhận đề nghị của Sùng Hiền hầu để Từ Đạo Hạnh thác sinh làm con của hầu, Đạo Hạnh xin phép hầu cho gặp phu nhân. Người nhà cho biết: Phu nhân đang tắm. Từ Đạo Hạnh nói: “Như thế càng tốt, xin hầu cho phép vào gặp phu nhân ngay”. Phu nhân đang tắm, thấy một vị sư mở cửa nhìn, kế đó lại thấy bóng một đứa bé trong bồn nước. Thiền sư Đạo Hạnh trở ra dặn Sùng Hiền hầu rằng: “Khi nào phu nhân sắp sinh, xin cấp tốc cho người lên núi báo cho sư biết”. Việc này được sách “Đại Việt sử ký toàn thơ” viết như sau:
“Nhâm Thìn, Hội Tường Đại Khánh năm thứ ba (1112):
Mùa Xuân móc ngọt xuống, Chiêm Thành dâng voi trắng.
Bấy giờ vua tuổi đã cao mà chưa có con trai nối dõi, xuống chiếu chọn con của tông thất để lập làm con nối ngôi. Em vua là Sùng Hiền hầu (không rõ tên) cũng chưa có con trai. Gặp lúc nhà sư núi Thạch Thất là Từ Đạo Hạnh đến viếng thăm; hầu nói (với Đạo Hạnh) về việc cầu tự, Đạo Hạnh dặn rằng: “Bao giờ phu nhân sắp đến ngày sinh thì phải báo cho tôi biết trước”. Rồi Đạo Hạnh cầu khẩn với Sơn thần. Ba năm sau, phu nhân có mang sinh con trai là Lý Dương Hoán (...).
Ất Mùi, Hội Tường - Đại Khánh năm thứ 6 (1115), mùa Xuân. Tháng Giêng, phong ba Hoàng hậu là Lan Anh, Khâm Thiên, Chấn Bảo và 36 cung nhân. Bấy giờ, vua (Lý Nhân Tông) không có con trai, cho nên lập nhiều Hoàng hậu và cung nhân, làm đàn chay để cầu tự.
Thái hậu (Linh Nhân) dựng chùa Thờ Phật, trước sau hơn trăm chùa (tục truyền rằng Thái hậu hối hận về việc Thái hậu Thượng Dương và các thị nữ vô tội mà bị giết chết, nên làm nhiều chùa Phật để sám hối và rửa oan).
Phu nhân Sùng Hiền hầu họ Đỗ mang thai, đến tháng Sáu năm Bính Thân (1116), phu nhân đau bụng sắp sinh, Sùng Hiền hầu cho người nhà cỡi ngựa lên chùa Thiên Phúc ở núi Sài Sơn (hay núi Thạch Thất) để báo tin cho sư Từ Đạo Hạnh. Thiền sư Đạo Hạnh nghe tin liền tắm rửa, thay y phục, cho gọi đồ chúng đến phó chúc:
“Túc nhân của ta chưa hết, phải còn sinh lại thế gian này, tạm làm một vị quốc vương. Sau đó khi mạng chung, ta lại làm thiên chủ ở cõi trời thứ ba mươi ba. Đến khi xác thân của ta bị hủy hoại, thì lúc ấy ta mới nhập Niết bàn, không còn luân hồi sinh diệt nữa”.
Đệ tử nghe nói, ai nấy đều khóc. Thiền sư Từ Đạo Hạnh thuyết bài kệ tiên tri như sau:
Thu lai bất báo nhạn lai qui
Lãnh tiếu nhân gian tạm phát bi
Vị báo môn nhân hưu luyến chước
Cổ sư kỷ độ tác kim sư.
Nhà thơ Ngô Tất Tố dịch thơ:
Thu về chẳng báo nhạn bay theo
Cười nhạt đời người uổng xét vay
Thôi hỡi môn đồ đừng quyến luyến
Thầy xưa mấy lượt hóa thầy nay.
Nói kệ xong, Thiền sư Đạo Hạnh an nhiên hóa, xác thân của sư vẫn còn nguyên vẹn trong tư thế ngồi thiền, mãi đến khi nhà Minh xâm lăng Đại Việt, niên hiệu Vĩnh Lạc (1407 - 1424), kim thân của Thiền sư Từ Đạo Hạnh mới bị quân Minh đốt cháy.
Như vậy, chúng ta thấy rằng lời báo trước của thiền sư Từ Đạo Hạnh đúng như sự việc xảy ra:
Năm 1116,Từ Đạo Hạnh sinh làm con của Sùng Hiền hầu, tên là Lý Dương Hoán, năm hai tuổi được lập làm Hoàng Thái tử.
Năm 1128, vua Lý Nhân Tông băng, Thái tử Dương Hoán lên nối ngôi, vua Lý Thần Tông ở ngôi 11 năm (1128-1138) thì băng, thọ 23 tuổi (1116 - 1138). Lúc đó có thể hóa thân của Từ Đạo Hạnh được lên cõi trời thứ ba mươi ba. Mãi đến gần ba trăm năm sau, vào niên hiệu Vĩnh Lạc (1407 - 1424), Thiền sư Đạo Hạnh mới được giải thoát khỏi luân hồi nhân quả nữa khi quân Minh đốt xác sư.
Thiền sư Từ Đạo Hạnh ( ? - 1116) hiện vẫn còn được thờ cúng ở chùa Thầy (là nơi sư giáo hóa) và chùa Láng hay chùa Chiêu Thiền (nơi sinh của sư). Ở chùa Láng, hàng năm mở hội vào ngày mùng 7 tháng 3 âm lịch, trong buổi lễ có diễn lại sự tích của Thiền sư Từ Đạo Hạnh và sư Đại Điên

---o0o---

(Có sách cho chuyện này là huyễn hoặc và bác đi, nhưng tưởng ta cũng không nên tin hẳn. Ta chỉ nên nhớ rằng những chuyện ấy đối với những tà thuật của Đạo giáo là một sự thường và nhân đó ta có thể biết rõ rằng Phật giáo pha lẫn với Đạo giáo bắt đầu từ lúc ấy.
Nguyên pháp của Thiền Tôn là phép Thiền định, tập trung tư tưởng, luyện nhân thần nhân diện như thôi miên học của Thái Tây bây giờ. Khi tâm đã chuyên nhất, trí đã mở thì ở người ta có thể phát hiện nhiều thần thông mới lạ. Nhưng nếu người tu hành nhận lầm thần thông ấy là cứu cánh trong sự tu hành của mình, như vậy là sai lạc chân lý và không khéo thần thông ấy lại trở thành tà thuật, những pháp thuật ấy có thể gần với pháp thuật của Đạo giáo, nên hai phái ấy có thể hỗn hợp được. Xét thế, sau này ta khỏi lấy làm lạ khi thấy các Sư tu chùa cũng cúng cấp yểm bùa, thần chú. Ấy là vì càng về sau Phật giáo càng bị những tà đạo hạ cấp xen vào, nên Phật giáo mới lạc mật tôn chỉ và luật pháp của Phật Thích Ca vậy) (Trích Việt Nam Phật Giáo Sử Lược - HT Mật Thể, Chương Phật Giáo Thời Lý

---o0o---

Truyền Thuyết Thiền Sư Từ Đạo Hạnh
TS. NGUYỄN HUY BỈNH*

Chùa Thầy là tên gọi một ngôi chùa nhưng đồng thời cũng là tên của ngọn núi Thầy. Vì chùa nằm trên núi Thầy nên có tên là chùa Thầy. Đây là một quy luật gọi tên chùa ở nước ta, như chùa Dạm nằm trên núi Dạm, chùa Phật Tích nằm trên ngọn núi Phật Tích (Bắc Ninh)... Chùa Thầy còn có tên gọi khác là Thiên Phúc tự, chùa Phật Tích. Trong lịch sử tồn tại hàng ngàn năm, chùa Thầy mang giá trị cả về mặt tôn giáo, lịch sử và văn hóa. Chính vì vậy, từ xưa chùa Thầy in hình khắc bóng trong đời sống tinh thần của người dân xứ Đoài. Dân gian còn lưu truyền câu ca dao:
Gái chưa chồng trông hang Cắc Cớ
Trai chưa vợ nhớ hội chùa Thầy
Chùa Thầy đã trở thành một điểm đến của biết bao thế hệ người dân đi lễ Phật cầu may, trở thành nơi tụ hội và gặp gỡ của các nam thanh nữ tú trong những ngày hội chùa.
Chùa Thầy gắn liền với tên tuổi của nhà sư nổi tiếng thời Lý là Từ Đạo Hạnh, và danh tính của nhà sư này cũng được lưu truyền cùng với sự tồn tại của ngôi chùa. Tìm hiểu truyền thuyết về Từ Đạo Hạnh, chúng tôi hướng đến làm rõ quan điểm của dân gian về nhân vật có tầm ảnh hưởng lớn đến Phật giáo thời nhà Lý. Trên cơ sở sưu tầm các bản truyền thuyết về Từ Đạo Hạnh, chúng tôi thống kê được 5 bản kể khác nhau.
Bản kể thứ nhất[1] có thể tóm tắt như sau: Đạo Hạnh họ Từ tên là Lộ, ngay từ khi mới sinh đã có khí cốt tiên phật, lúc trẻ hay chơi bời phóng túng, nhưng có chí lớn, cách cử động ít người lường. Về sau, Từ Đạo Hạnh thi khoa Bạch Liên, đỗ thứ nhất, nhưng không chịu ra làm quan, ông ngày đêm nghĩ cách phục thù cho cha. Cha ông dùng pháp thuật phạm vào nhà ông Diên Thành Hầu. Nhà Hầu có vị pháp sư là Đại Điên dùng bùa trấn áp, giết chết vứt xác xuống sông Tô Lịch. Đạo Hạnh ở nhà thờ cha mẹ. Một hôm rình Đại Điên đi ra đường, ông toan dùng pháp thuật, cầm gậy xông đến đánh, chợt nghe trên không có tiếng thét “Không được! Thôi ngay đi”, Đạo Hạnh liền bỏ về định sang bên Ấn Độ ở Tây Thiên học cho được thuật lạ để đánh Đại Điên. Đạo Hạnh cùng với Minh Không, Giác Hải cùng đi, đến nước Sỉ Man, thấy đường đi rất hiểm trở nên định quay về. Bỗng thấy một cụ già chèo chiếc thuyền nhỏ bên sông, cụ cho mượn chiếc thuyền và cây gậy, cứ chỉ về phía tây sẽ đến Tây Thiên ngay. Đến Tây Thiên, Minh Không và Giác Hải học được pháp thuật nên về trước, còn Từ Đạo Hạnh gặp được một bà cụ già, ông đã học được nhiều phép thiêng, được cụ già trao cho phép rút đất và thần chú Đà ni. Khi trở về, Đạo Hạnh đến tu tại chùa Thiên Phúc (chùa Thầy). Trước chùa có hai cây thông cổ, người ta thường gọi là cây “Rồng”. Đạo Hạnh hằng ngày trông vào cây đọc chú, đọc tới ức vạn lần, cây thông rơi từng cành, rồi cả hai cây đều mất hết. Biết rằng Quan Thế Âm đã ứng hộ, Đạo Hạnh càng gia tâm tụng kinh đọc chú, cầu cho thấu đến Thiên Đường. Một hôm có vị thần Tứ Trấn Thiên Vương đến theo hầu, Đạo Hạnh biết mình đã thông cả lục trí, có thể báo thù được cho cha, mới về làng An Lãng. Một buổi, Đạo Hạnh ra cầu An Quyết trên sông Tô Lịch, ném cái gậy xuống sông, gậy dựng đứng trên mặt trước, chạy ngược dòng như bay, đến cầu Tây Dương thì dừng lại, Đạo Hạnh bèn tìm đến đánh chết Đại Điên, đem xác quẳng xuống sông Tô Lịch để trả thù trước. Trả thù xong, tâm trí nhẹ nhàng, Đạo Hạnh đi khắp nơi rừng sâu để cầu ấn quyết.
Bấy giờ, vua Lý Nhân Tông không có con trai, cầu tự mãi không được, em Nhân Tông là Sùng Hiền Hầu bèn mời Từ Đạo Hạnh đến nhà cầu tự cho mình để sau con mình sẽ được lập làm thái tử. Đạo Hạnh xin đầu thai để tạ ơn. Bấy giờ, Sùng Hiền phu nhân đang tắm trong phòng, bỗng thấy Đạo Hạnh hiện hình trong thùng nước. Đến ngày phu nhân sinh, Từ Đạo Hạnh dặn dò các đồ đệ, rồi đập đầu vào vách đá, nện chân nên bàn đá mà hóa. Từ Đạo Hạnh thác sinh làm con trai Sùng Hiền Hầu, sinh ra chóng lớn, rất thông minh, người đẹp lại có tài. Vua Lý Nhân Tông cho vào cung lập làm thái tử. Đến khi vua mất, thái tử nối ngôi lấy tên hiệu là vua Thần Tông. Năm 21 tuổi, vua Thần Tông bị bệnh, khắp người mọc đầy lông lá, biến hình như con hổ. Các danh sư đến chữa rất nhiều nhưng không khỏi. Minh Không và Giác Hải nghe tin, biết là ứng với lời xưa bèn đặt ra câu ca dao cho trẻ em hát với nội dung muốn chữa khỏi bệnh cho vua, phải tìm đến Nguyễn Minh Không. Triều đình cho người đi tìm Nguyễn Minh Không đến. Ông ta dùng lấy một cái vạc to đổ 12 cân dầu và bỏ 100 cái đanh vào vạc đun sôi lên rồi lấy cành hoa hòe vẩy dầu ấy lên khắp người vua, vua khỏi bệnh. Sau này vua mất, chùa Thiên Phúc hiện lên khí thiêng lạ thường. Khi Đạo Hạnh hóa, xác còn ở trong động, trải qua hàng tháng vẫn thơm tho. Khi quân nhà Minh sang ta, đến nơi vẫn thấy mùi hương thơm nức, tìm đến trong khám chân thân một vị đạo nhân, nét mặt tươi như lúc còn sống.
Bản thứ hai[2] có thể tóm tắt như sau: Từ Đạo Hạnh từ thuở thiếu niên đã có tài chí lớn, ham học, thích giao du hào hiệp; hành động, ngôn ngữ không ai có thể lường được. Sau dự kỳ thi tăng hương thí, đỗ khoa Bạch Liên. Cha ông dùng tà thuật làm phật ý Diên Thành hầu, nên bị Diên Thành sai Đại Điên thiền sư dùng phép đánh chết, vì thế Từ Đạo Hạnh quyết chí trả thù cho cha. Ông tu luyện phép thuật, đọc kinh đại bi đa la, đọc trọn mười vạn tám ngìn lần. Một hôm, có thần nhân đến trước mặt nói rằng: “Kẻ đệ tử tức là Trấn Thiên Vương, cảm phục thầy có công trì kinh nên lại đây để thầy sai khiến”, Từ Đạo Hạnh biết là đạo pháp đã thành, bèn đi trả thù cho cha. Ông đến cầu An Quyết, cầm cây gậy chống ở tay, ném xuống dòng nước chảy xiết. Gậy đi ngược dòng nước tới cầu Tây Dương thì dừng lại. Ông tìm gặp và đánh Đại Điên khiến Đại Điên mang bệnh mà chết. Sau đó ông đi du ngoạn các miền rừng rú để tìm dấu Phật. Về sau, phép lực ngày càng mạnh, duyên thiền càng kết. Các giống rắn núi, thú đồng đến quấn quýt quanh mình. Từ Đạo Hạnh có thể bấm đốt ngón tay cầu đảo, chú phép vào nước trị bệnh, không lúc nào không nghiệm. Khi nhà vua mở hội bảy ngày đêm cho Đại Điên đầu thai, Từ Đạo Hạnh dùng bùa phép ngăn cản nên bị nhà vua bắt, cho nên phải đầu thai để thoát nạn. Từ Đạo Hạnh đến nhà Sùng Hiền Hầu đầu thai vào vợ ông ta. Hầu phu nhân bèn sinh con trai đặt tên là Dương Hoán. Khi lên ba, vua Nhân Tông nuôi ở trong cung, lập làm thái tử. Nhân Tông băng hà, thái tử tức vị. Đó là vua Thần Tông do Từ Đạo Hạnh thác sinh ra.
Sách Lĩnh Nam chích quái còn có đoạn kể về thiền sư Từ Đạo Hạnh trước khi hóa đã truyền dạy pháp thuật cho Nguyễn Minh Không. Sau này, Lý Thần Tông mắc bệnh lạ, tâm thần rối loạn, tiếng kêu đau đớn gầm rú rất đáng sợ. Các lương y trong thiên hạ đều không thể chữa trị. Nguyễn Minh Không chữa khỏi bệnh cho vua bằng cách lấy vạc dầu đun sôi, rắc vẩy lên khắp mình vua. Vua bèn phong Minh Không làm Quốc sư.
Bản kể thứ ba[3]có thể tóm tắt như sau: Vào đời vua Lý Nhân Tông, có ông Từ Vinh làm quan Đô án, thường lấy phép dối trá mà trêu ghẹo mọi người. Quan Thành hầu tức mình, mượn Đại Điên làm phép giết chết, vứt xác xuống sông Tô Lịch. Con ông ấy là Từ Lộ đem lòng oán thù, mới vào tu chùa Phật Tích mà dân gian còn gọi là chùa Thầy, đặt tên hiệu là Từ Đạo Hạnh, học thêm phép để báo thù cho cha. Vài năm ông học được đủ phép, thư phù vào gậy sắt, rồi mới thả xuống sông Yên Quyết, trôi ngược đến nhà Đại Điên. Đại Điên nghe nói có hiện tượng lạ, ra xem, bị cái gậy ấy bật lên đánh chết. Tiếng đồn ông Từ Lộ báo thù được cho cha, tài nhất nước Nam bấy giờ.
Vua Nhân Tông muốn có con nối ngôi, lập đàn cầu tự suốt ba năm liền. Người dân đồn rằng có đứa bé lên ba tuổi có nhiều phép tài, vua đem đứa bé cho Từ Đạo Hạnh làm phép thác sinh. Từ Đạo Hạnh biết đứa bé đó là Đại Điên hiện thân nên làm phép khoán ngăn cản. Ông bị nhà vua bắt giam, bèn nghĩ kế đầu thai để thoát nạn. Đến khi vợ vị quan Sùng Hiền trở dạ, ông vào hang đá trong chùa, đập đầu mà hóa đi. Sau hang vẫn còn vết bàn chân với vết đập đầu. Vợ Sùng Hiền sinh ra người con trai, ấy chính là ông Từ Lộ thác sinh, đặt tên là Dương Hoán. Khi lên ba tuổi, Dương Hoán được vua đem vào nuôi trong cung, dựng làm thái tử. Đến khi vua mất, Dương Hoán nối ngôi, miếu hiệu là Thần Tông. Ông ở ngôi được mấy năm thời phải bệnh, mình mẩy mọc lông lá, tiếng kêu gầm như hổ. Các thầy phù thủy, thầy thuốc không có phép nào chữa khỏi. Các quan nghe trẻ con hát có ông Nguyễn Minh Không chữa được bệnh, thiên tử bèn sai sứ đi tìm. Ông Nguyễn Minh Không chữa được khỏi bệnh cho nhà vua, vua phong làm Lý triều Quốc sư.
Bản kể thứ tư[4] và bản kể thứ năm[5] có nội dung khá thống nhất với nhau, có thể tóm tắt như sau: Từ Lộ tự là Đạo Hạnh làm thầy cúng ở chùa Thiên Phúc. Lúc bé, Từ Đạo Hạnh chơi bời phóng túng nhưng lại có chí, ông cùng với Phí Sĩ, Phan Ất, Lê Hoàn kết bạn, đêm thì đọc sách, ngày thì đàn sáo đánh bạc làm vui. Về sau, Đạo Hạnh thi khoa Bạch Liên, đỗ Tăng quan. Cha ông dùng tà thuật phản ông Diên Thành Hầu, nên Thành Hầu đã nhờ thầy phù thủy Đại Điên dùng phép đánh chết. Đạo Hạnh lấy làm tức giận, muốn sang Ấn Độ học phép để trả thù cho cha, nhưng đi qua núi Kim Xỉ hiểm trở nên phải trở về. Đạo Hạnh vào trong hang núi Phật Tích, kết thành hội Bạch Liên để học phép ngũ giáo. Ngày nào cũng tụng kinh “Đại bi tâm”. Một hôm thần báo mộng là có Tứ trấn Thiên vương xin theo để Đạo Hạnh sai khiến. Đạo Hạnh biết đạo pháp của mình đã thành rồi, bèn tìm cách phục thù cho cha. Đạo Hạnh cầm cây gậy ném xuống dòng sông, nước chảy xuôi mà gậy trôi ngược, trông tựa con rồng. Đạo Hạnh dùng phép tàng hình đến thẳng chỗ Đại Điên chơi cầm cây gậy đánh khiến Đại Điên mang bệnh mà chết. Trả thù xong cho cha, Đạo Hạnh đi khắp rừng núi, hỏi tìm ấn chứng. Phép thuật của ông ngày càng tinh thông, nội là rắn độc trên núi, hùm dữ trên rừng cũng có phép sai khiến được cả.
Bấy giờ vua Lý Nhân Tông chưa có con, vua lập đàn để đứa bé đầu thai làm con nhưng Từ Đạo Hạnh biết đó là Đại Điên muốn đầu sinh để báo thù nên dùng pháp thuật ngăn cản việc đầu sinh đó. Vua sai bắt Từ Đạo Hạnh, và cho ông được đầu sinh. Từ Đạo Hạnh bèn đầu sinh vào vợ Sùng Hiền Hầu, từ đấy phu nhân có mang. Đến ngày sinh, Đạo Hạnh dặn dò học trò rồi lột xác ra mà hóa thành một đứa con trai nhà Sùng Hiền Hầu. Vua yêu mến đưa bé ấy, cho nuôi ở trong cung, lập lên làm thái tử, khi vua mất, thái tử lên ngôi, đó là vua Thần Tôn.
Ngoài ra, một số thư tịch khác cũng ghi chép lại nội dung của truyện kể về nhân vật Từ Đạo Hạnh, như các cuốn sách: Thiền uyển tập anh, An Nam chí lược, Đại Việt sử lược, Đại Việt sử ký toàn thư, Sài Sơn thi lục, Sài Sơn thực lục, Sài Sơn linh tích... Như vậy, việc ghi chép lại sự tích về Từ Đạo Hạnh có một tiến trình lâu dài, nó diễn ra ở các vương triều và các thời kỳ lịch sử khác nhau. Điều này đã cho phép chúng ta khẳng định, Từ Đạo Hạnh là một nhân vật được nhiều nhà văn hóa cũng như các sử gia đặc biệt quan tâm. Đi sâu tìm hiểu và khảo sát các dị bản trong Việt điện u linh và Lĩnh Nan chích quái, chúng tôi nhận thấy, truyện về Từ Đạo Hạnh chủ yếu được ghi chép ở các phần Tân san, Hiệu tập, Tục biên… chứ không ghi chép ở phần nguyên tác. Như vậy, có thể tác phẩm đã được thế hệ sau ghi chép nối tiếp. Nhà nghiên cứu Đinh Gia Khánh cho rằng: Truyện Từ Đạo Hạnh trong sách Việt điện u linh do Ngô Giáp Đậu (1853-?) biên soạn[6](6). Việc Từ Đạo Hạnh xuất hiện trên thư tịch của nhiều tác giả và trải qua quá trình lịch sử khác nhau bởi ông vừa là một nhân vật lịch sử, nhưng đồng thời cũng là một nhân vật tôn giáo, văn hóa, ông có một hành trạng khá độc đáo và chịu ảnh hưởng của văn hóa dân gian bản địa và tôn giáo ngoại lai. Khảo sát các bản truyền thuyết kể về Từ Đạo Hạnh, có thể nhận thấy hai motif cơ bản là: motif quyền phép thần kỳ và motif hóa sinh đầu thai hoang đường.
Về motif quyền phép thần kỳ: Nhân vật Từ Đạo Hạnh được miêu tả là người tài chí và dày công luyện tập pháp thuật, sau khi cha ông bị Đại Điên giết hại, ông lấy làm căm phẫn, tìm mọi cách để trả thù. Tất cả các bản truyền thuyết đều có chi tiết kể Từ Đạo Hạnh đã tu luyện pháp thuật và trở thành một người có nhiều quyền phép. Như ở bản kể 1, Đạo Hạnh sang nước Ấn Độ ở Tây Thiên học thuật lạ về đánh Đại Điên. Đến Tây Thiên, Từ Đạo Hạnh được một bà cụ truyền dạy cho mọi phép thiêng, lại trao cho phép rút đất và thần chú. Còn trong các bản kể 2, 3, 4, 5 không có chi tiết Từ Đạo Hạnh sang Ấn Độ tu luyện phép thuật, mà ông ở lại trên núi Phật Tích - nơi có ngôi chùa Thầy để tu luyện.
Motif quyền phép thần kỳ còn có chi tiết Từ Đạo Hạnh giết chết Đại Điên trả thù cho cha. Chi tiết này được các bản truyền thuyết kể khá thống nhất rằng, sau khi học được phép thuật, Từ Đạo Hạnh bèn thân đến cầu An Quyết, cầm cây gậy chống ở trên tay ném xuống dòng nước chảy xiết. Bản 1, 2, 4, 5 kể, cây gậy đi ngược dòng nước tới cầu Tây Dương thì dừng lại. Từ Đạo Hạnh đi tìm đánh Đại Điên khiến cho Đại Điên mang bệnh mà chết. Bản 3 kể, Từ Đạo Hạnh học được đủ phép, thư phù vào gậy sắt, rồi mới thả xuống sông Yên Quyết, tên nôm là sông Cót, gậy trôi ngược đến nhà Đại Điên, Đại Điên nghe thấy có hiện tượng lạ, ra xem nên bị cây gậy bật lên đánh chết.
Nói đến khả năng quyền phép thần kỳ của nhân vật Từ Đạo Hạnh, trong truyền thuyết còn có chi tiết kể rằng, khi nhà vua định làm lễ hóa sinh, đầu thai cho đứa bé có tên là Giác Hoàng nguyên là hiện thân của Đại Điên thì Từ Đạo Hạnh đã dùng pháp thuật ngăn cản. Các bản truyền thuyết đều kể rằng, Từ Đạo Hạnh nhờ chị ăn mặc giả làm sư, cầm giấu vài quả ấn pháp sư, giắt lên mái nhà chỗ đàn chay. Cúng được ba hôm, đứa bé phải bệnh bảo với mọi người là: Khắp thế giới chỗ nào cũng chăng lưới sắt, không có đường nào mà đầu thai được. Như vậy, theo truyền thuyết thì phép thuật của Từ Đạo Hạnh đã vượt xa so với phép thuật của Giác Hoàng vốn nổi tiếng lúc đương thời. Về chi tiết này, sách lịch sử của nước ta cũng có ghi chép, Đại Việt sử lược có viết về Sùng Hiền Hầu nói với vua: “Giác Hoàng có thần lực thật đấy, mà bị Từ Lộ cản trở thì đó là Từ Lộ thắng Giác Hoàng, sự việc rõ ràng như thế thì không gì bằng cho Từ Lộ thác sinh”.
Về motif hóa sinh đầu thai: Các truyền thuyết đều có nội dung kể khá thống nhất rằng, Từ Đạo Hạnh dùng pháp thuật ngăn cản cuộc đầu thai của Giác Hoàng nên bị nhà vua bắt giữ, định xử tội nặng. Từ Đạo Hạnh nhờ được Sùng Hiền Hầu cứu giúp, ông hứa sẽ đầu thai làm con Sùng Hiền Hầu để trả ơn. Không riêng gì các bản truyền thuyết trên kể về sự đầu thai của nhân vật Từ Đạo Hạnh mà ngay cả sử sách cũng từng ghi lại khá tỉ mỉ, Đại Việt sử ký toàn thư có viết: “Tống Chính Hòa năm thứ 6. Mùa hạ, nhà sư Từ Đạo Hạnh trút xác ở trên núi Thạch Thất. Từ Đạo Hạnh đến nơi núi ấy, thấy tảng đá trong hang núi có vết chân người, lấy chân ướm vào vừa đúng: tục truyền đó là chỗ Đạo Hạnh trút xác. Trước là phu nhân của Sùng Hiền Hầu là Đỗ Thị đã có mang, đến đây trở dạ mãi không đẻ. Hầu nhớ lời Đạo Hạnh dặn khi qua đời. Sau đó phu nhân sinh con trai, tức là Dương Hoán. Người làng cho là việc lạ, để xác Đạo Hạnh vào trong khám để thờ. Nay núi Phật Tích tức là chỗ ấy. Hàng năm, mùa xuân, cứ đến ngày mùng 7 tháng 3, con trai, con gái hội họp ở chùa, là hội vui có tiếng một vùng. Người đời sau ngoa truyền là ngày giỗ của sư”[7].
Có thể lý giải motif quyền phép thần kỳ và motif hóa sinh đầu thai trong truyền thuyết Từ Đạo Hạnh từ góc nhìn văn hóa dân gian và từ góc nhìn Phật giáo. Chúng ta có thể nhận thấy một điều là hầu hết các thư tịch ghi chép về thiền sư Từ Đạo Hạnh thuộc về thời kỳ trung đại trong văn học Việt Nam. Ở thời kỳ này, ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo đến các tác phẩm văn học, nhất là các truyện kể mang yếu tố chí quái là khá đậm nét. Về cơ bản, truyện kể về Từ Đạo Hạnh lấy nhân vật lịch sử và sự kiện lịch sử làm đối tượng phản ánh. Tuy nhiên, khi đi vào trong trang truyền thuyết, nhân vật này một mặt được thần thánh hóa theo quan niệm của dân gian, một mặt lại được tôn giáo hóa theo quan niệm Phật giáo.
Về xu hướng dân gian hóa trong truyện kể về Từ Đạo Hạnh có thể nhìn nhận từ phương diện cấu trúc tác phẩm truyền thuyết dân gian. Các truyền thuyết thường có cấu trúc hoàn chỉnh như sau: Sinh nở thần kỳ; trưởng thành kỳ diệu; lập chiến công phi thường và hóa thân kỳ ảo. Còn đối với các truyện được ghi chép trong Thiền uyển tập anh ngữ lục lại chú ý đến nhân vật thần kỳ ở ba phương diện là: Ra đời thần kỳ; pháp thuật tu luyện thần kỳ và tịch diệt thần kỳ. Truyền thuyết Từ Đạo Hạnh nổi bật lên với hai motif là tu luyện quyền phép thần kỳ và hóa sinh đầu thai hoang đường. Từ các chi tiết kể về việc tu luyện thần kỳ đến việc có cây gậy hộ mệnh đầy phép thuật và chi tiết hóa sinh đầu thai đều có nguồn gốc từ văn hóa dân gian với sự biến hóa thần thông và có tài chí phi thường của nhân vật. Tương truyền Thần Tông là hậu thân của sư, còn Giác Hoàng là Đại Điên đã gợi mở những khả năng cho trí tưởng tượng bay bổng của dân gian. Điều đó cho thấy tác phẩm này có mối quan hệ chặt chẽ với văn hóa dân gian, bị văn hóa dân gian chi phối và thấm đẫm chất dân gian. Nó biểu hiện rõ mối quan hệ giữa văn học viết và văn học dân gian, rộng hơn là giữa văn học viết và văn hóa dân gian.
Mặt khác, truyện kể về Từ Đạo Hạnh chịu ảnh hưởng rõ rệt của tư tưởng Phật giáo. Khi Phật giáo vào nước ta, các nhà truyền giáo đã khéo léo sử dụng và lợi dụng yếu tố tín ngưỡng văn hóa dân gian để truyền bá Phật giáo, đó là tín ngưỡng thờ thần tự nhiên như thần nước, thần đá, thần núi, thần cây; ngoài ra còn có các tín ngưỡng khác như tín ngưỡng thờ nữ thần, tín ngưỡng thờ mặt trời… Do vậy, Phật giáo và tín ngưỡng bản địa có sự giao lưu văn hóa khá mạnh mẽ. Thể hiện rõ nhất của hiện tượng giao thoa văn hóa này là cách thực hành tôn Phật giáo theo tông phái Mật giáo. Chính Mật giáo đã vận dụng các yếu tố bùa chú, bùa phép nhằm hấp dẫn, gây dựng niềm tin cho các tín đồ Phật tử cũng như tất cả chúng sinh. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Sơn: “Trong rất nhiều trường hợp, yếu tố mật giáo dường như đã chuyển hóa, dung hợp trong tư duy và cốt truyện dân gian, trở nên sự đan xen hỗn hợp rất khó tách bạch, song rõ ràng đây là một thực tế không thể bác bỏ”[8]. Trong truyện kể về Từ Đạo Hạnh, yếu tố mật giáo biểu hiện qua một số tình tiết và motif cấu thành tác phẩm, đó là hình thức tu luyện phép thuật, thường chọn những địa danh yên tĩnh, huyền bí và phải dày công khổ luyện. Nhưng khi tu luyện xong thì pháp thuật của nhân vật đã đạt đến mức hoàn chỉnh có thể có sức mạnh hơn người và làm được những việc kỳ diệu mà người thường không thể làm được. Việt điện u linh có đoạn kể về Từ Đạo Hạnh: Sau khi tu luyện trở về, Đạo Hạnh đến tu tại chùa Thiên Phúc (chùa Thầy). Trước chùa có hai cây thông cổ, người ta thường gọi là cây “Rồng”. Đạo Hạnh hằng ngày trông vào cây đọc chú, đọc tới ức vạn lần, cây thông rơi từng cành, rồi cả hai cây đều mất hết. Một hôm có vị thần Tứ Trấn Thiên Vương đến theo hầu, Đạo Hạnh biết mình đã thông cả lục trí, có thể báo thù được cho cha. Một buổi, Đạo Hạnh ra cầu An Quyết trên sông Tô Lịch, ném cái gậy xuống sông, gậy dựng đứng trên mặt trước, chạy ngược dòng như bay, đến cầu Tây Dương thì dừng lại, Đạo Hạnh bèn tìm đến đánh chết Đại Điên, đem xác quẳng xuống sông Tô Lịch để trả thù trước. Qua sự miêu tả trên thì xung quanh nhân vật Từ Đạo Hạnh đã có vầng hào quang thần kỳ lấp lánh đan xen cùng con người hiện thực. Sách Lĩnh Nam chích quái có đoạn kể: Phép thuật của ông ngày càng tinh thông, nội là rắn độc trên núi, hùm dữ trên rừng cũng có phép sai khiến được cả. Có thể nói, ban đầu, từ một nhân vật được miêu tả là gần gũi với con người trần gian thì sau khi tu luyện được phép, Từ Đạo hạnh mang dáng dấp của nhân vật thần thánh và có phần kỳ bí khác thường.
Đặc biệt, sự kỳ bí còn thể hiện qua motif hóa sinh đầu thai của nhân vật. Theo truyện kể, Từ Đạo Hạnh đã biết trước được số phận của mình phải đầu thai tái sinh lần nữa mới hoàn thành kiếp nghiệp, và nhân một lần phá bùa chú của Giác Hoàng, ông bị nhà vua bắt giam nên bày cách đầu thai để thoát nạn. Từ Đạo Hạnh đầu thai vào người vợ của Sùng Hiền Hầu, khi bà ta đến kỳ sinh, ông dặn dò đệ tử của mình rồi vào hang đá trong chùa, đập đầu mà hóa đi. Sau hang vẫn còn vết bàn chân với vết đập đầu. Khi đứa bé được Từ Đạo Hạnh đầu thai lên làm vua thì một tình tiết thần kỳ nữa diễn ra, đó là vua Thần Tông mang bệnh, mình mẩy mọc lông lá, tiếng kêu gầm như hổ. Các thầy phù thủy, thầy thuốc không có phép nào chữa khỏi. Các quan nghe trẻ con hát có ông Nguyễn Minh Không chữa được bệnh thiên tử bèn sai sứ đi tìm. Ông ta dùng lấy một cái vạc to đổ 12 cân dầu và bỏ 100 cái đanh vào vạc đun sôi lên rồi lấy cành hoa hòe vẩy dầu ấy lên khắp người vua, vua khỏi bệnh. Sau này vua mất, chùa Thiên Phúc hiện lên khí thiêng lạ thường. Khi Đạo Hạnh hóa, xác còn ở trong động, trải qua hàng tháng vẫn thơm tho. Khi quân nhà Minh sang ta, đến nơi vẫn thấy mùi hương thơm nức, tìm đến trong khám chân thân một vị đạo nhân, nét mặt tươi như lúc còn sống... Tất cả các tình tiết ấy đều phản ánh một vấn đề là yếu tố mật tông cùng với Đạo giáo hòa quyện, đan xen vào nhau. Tác giả Hà Văn Tấn cho rằng: “Mật tông tiếp cận với Đạo giáo, chú trọng đến các nghi lễ tôn giáo thần bí… Sách Thiền uyển tập anh cho chúng ta biết nhiều về điều này”[9].
Việc phân tích các bản truyền thuyết kể về nhân vật Từ Đạo Hạnh cho thấy rõ đây là một hiện tượng khá phức tạp, tồn tại nhiều lớp văn hóa khác nhau. Chúng ta có thể nhận ra các yếu tố về lịch sử, văn học dân gian, các yếu tố mật tông của Phật giáo hay cả yếu tố của Đạo giáo. Như vậy, truyện kể về Từ Đạo Hạnh là một hiện tượng phức hợp, nó tổng hợp được nhiều yếu tố khác nhau của cuộc sống trong chiều dài lịch sử dân tộc. Nhìn dưới góc độ văn học dân gian, đây là một truyền thuyết độc đáo, phản ánh nội hàm văn hóa của dân tộc trong những thời kỳ khác nhau, đặc biệt là thời Lý - Trần. Dưới góc nhìn tôn giáo học, truyện kể về Từ Đạo Hạnh thuộc về kiểu truyện các thiền sư với nhiều điều kỳ bí và hấp dẫn.

________________________________________
* Viện Văn học
[1] Lý Tế Xuyên. Việt điện u linh.(Trịnh Đình Rư dịch, Đinh Gia Khánh bổ sung). Nxb Văn học, H, 1972.
[2] Vũ Quỳnh, Kiều Phú. Lĩnh Nam chích quái. Nxb. Văn học, H, 1999.
[3] Dẫn theo: “Sử Nam chí dị”. Tổng tập văn học dân gian người Việt, tập 4 (truyền thuyết). Nxb. Khoa học xã hội, H, 2004
[4] Phán Kế Bính. Nam Hải dị nhân. Nxb. Trẻ (tái bản), 2001.
[5] Tô Nguyệt Đình. Chuyện cổ tích. Xuất bản tại Sài Gòn năm 1963
[6] Lý Tế Xuyên. Việt điện u linh (Trịnh Đình Rư dịch, Đinh Gia Khánh bổ sung). Nxb.Văn học, H, 1972, tr .13.
[7] Ngô Sĩ Liên. Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb. Khoa học xã hội, H, 1985, tr 116.
[8] Nguyễn Hữu Sơn.  Loại hình tác phẩm Thiền uyển tập anh. Nxb Khoa học xã hội, H, 2002, tr 225.
[9] Hà Văn Tấn. “Từ một cột kinh Phật năm 973 vừa phát hiện ở Hoa Lư”. Nghiên cứu Lịch sử, số tháng 7 năm 1965.

---o0o---

Chùa Thiên Phước (Chùa Thầy)

Chùa Thầy: Nơi Thiền sư Từ Đạo Hạnh từng trụ trì. Ảnh: Internet

Chùa Thầy (Chùa Thiên Phúc)

Chùa Thiên Phúc thường được dân chúng gọi là chùa Thầy hay chùa Cả; cùng hệ thống chùa Thầy còn có am Từ Công (am của Ngài họ Từ, tức Thiền sư Đạo Hạnh) hay am Hương Hải, hay viện Bồ Đà và chùa Cao (chùa Đỉnh núi), cùng chùa Một mái (Bối Am).
Chùa Thầy được dựng ở phía Nam của núi Sài Sơn (hay núi Thạch Thất, hay núi Phật Tích thuộc địa phận hai xã Thiên Phúc và Thụy Khuê, huyện Yên Sơn, phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây; nay là xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây, cách Hà Nội khoảng gần 30km về hướng Tây.
Từ Hà Nội theo Quốc lộ 6 (đường đi Hòa Bình), qua khỏi cầu sông Đáy, theo Quốc lộ 52 đi đến cây số 12, quẹo vào đường nhỏ độ 7km là đến chùa Thầy.
I.Quá Trình Thành Lập Và Trùng Tu
Chùa Thầy ngày xưa là am tranh của Thiền sư Từ Đạo Hạnh, nên được gọi là Am Từ Công.
Vào tháng Chạp năm Đinh Dậu (tháng 1 năm 1058), vua Lý Thánh Tông cho mở rộng Am Từ Công thành ngôi chùa lớn với tên chánh thức là chùa Thiên Phúc. Vua Lý Nhân Tông cho đúc tượng Phật bằng vàng để Thờ ở chùa mùa Xuân năm Kỷ Sửu, niên hiệu Long Phù Nguyên Hòa thứ 9 (1109) và cho đúc một đại hồng chung nặng hai ngàn cân, chu vi chuông rộng mười vòng tay, đại Sa môn Huệ Hưng viết bài minh.
Năm Bính Thân (1116), đời vua Lý Nhân Tông, Thiền sư Đạo Hạnh viên tịch tại hang Thánh hóa trên núi Sài Sơn (Thiền sư Đạo Hạnh thác sinh thành Hoàng Tử Dương Hoán, sau lên ngôi vua, hiệu là Lý Thần Tông).
Có lẽ vào triều đại Lý Thần Tông (1128 - 1138) và Lý Anh Tông (1138 - 1175), chùa Thầy được trùng tu rộng lớn hơn .
Vào đời Trần, chùa thầy không còn hưng thịnh nữa vì các vua nhà Trần lo kiến thiết và trùng tu những ngôi Tổ đình của phái thiền Trúc Lâm (chùa Siêu Loại,Vĩnh Nghiêm, Vân Yên, Quỳnh Lâm, Phổ Minh).
Đến đời Hậu Lê, chùa Thầy mới được trùng tu và hưng thịnh trở lại, nhất là từ Thời Lê Trung hưng (1592 - 1801), Hoàng tộc nhà Lê và Hoàng gia chúa Trịnh đã dùng nhiều tiền của và công sức để trùng tu lại chùa Thầy và các chùa xưa khác ở Đàng Ngoài (từ sông Gianh trở ra Bắc).
Vào triều vua Lê Thánh Tông (1460 - 1497), phi của vua là Sung Nghi Nguyễn Thị Ngọc Huyên muốn được sinh con trai nên nhờ cha là Thái úy Nguyễn Đức Trung lên chùa Thiên Phúc làm lễ “cầu tự” (cầu cho Sung Nghi có con), một phiến đá trong hang Cắc Cớ trên núi Sài Sơn rơi xuống trước mặt. Thái úy bèn thỉnh phiến đá về tạc tượng Phật để Thờ.
Sau đó Sung Nghi Ngọc Huyên nằm chiêm bao thấy rồng vàng chui vào nách bên trái, rồi mang thai năm Tân Tị (1461), sinh Hoàng tử Lê Trạch.
Vì lời cầu nguyện linh ứng nên vua cử Thái úy Nguyễn Đức Trung lo việc trùng tu chùa Thầy và vua đã ngự đến viếng chùa, làm bài thơ “Đề Sài Sơn tự” (Đề chùa Sài Sơn) như sau:
Ngẫu nhiên thừa hứng đáo nham tiền
Ổn bộ vân cù thương thản nhiên.
Điểu ngữ hoán nghênh tùng hạ khách
Hoa dung tĩnh đối động trung tiên
Túc Liêu trần thế tam thiên giới
Thủ trích tinh thần đệ nhất thiên
Thí tải thạch đài miêu thở cảnh
Thi thành bút dĩ động sơn xuyên.

Tạm dịch :
Bỗng nhiên cao hứng viếng non cao
Đường mây yên ổn bước thảnh thơi
Chim trên rừng tùng chào đón khách
Hoa xinh động đá,đón khách tiên.
Chân vượt trần gian ba ngàn cõi
Tay hái trăng sao, một cõi trời
Phủ rêu trên đá, đề cảnh đẹp.
Bút thơ rung động chốn núi sông.
Năm Mậu Ngọ (1498), Thái tử Lê Trạch lên ngôi, tức vua Lê Hiến Tông. Năm 1500, vua Hiến Tông cho trùng tu chùa Thầy.
Đến đời nhà Mạc, chùa Thầy cũng được Hoàng tộc nhà vua sùng kính, thơờng dâng lễ và trùng tu. Năm Đại Chánh thứ 9 (1538) đời vua Mạc Đăng Doanh, Chiêu Nghi Nguyễn Thị Ngọc Phượng lại trùng tu chùa, sửa sang thủy đình và hồ sen Long Trì trước chùa.
Năm Hồng Ninh thứ hai (1592) đời vua Mạc Mậu Hợp, con của Thái úy Từ Quốc Công là Mạc Thị Ngọc Ý lại đứng ra trùng tu chùa Thầy.
Đến đời Lê Trung hưng, các vua Lê và chúa Trịnh đều viếng và lễ chùa. Năm 1602, đời vua Lê Kính Tông, Thượng thơ Bộ Hộ Mai Quận công Phùng Khắc Khoan, hay Trạng Bùng (1528-1613) trùng tu chùa Thầy ở quê nhà, cho xây lại chiếc cầu có mái che là cầu Nhật Tiên và cầu Nguyệt Tiên ở hai bên chùa. Trạng Bùng và bạn bè thơờng viếng chùa Thầy và đề thơ kỷ niệm.
Vào cuối thế kỷ 17, chúa Trịnh Căn (1682 - 1709) đến viếng chùa, có bài thơ Nôm vịnh cảnh chùa “Phật Tích sơn tự thi” (Bài thơ chùa núi Phật Tích) như sau:
Kiền khôn vẹn thiểu một bầu đông
Nay nảy siêu nhiên chỉn lạ lùng.
Hương vũ trăng thiền soi vặc vặc,
Vân sông tiếng ngọc nặng boong boong
Trì thanh leo lẻo như long hội,
Non nhiễu trùng trùng cẩm tú phong
Luận thế giới này giai cảnh ấy
Có bề quảng đại có linh thông.
Đến cuối thế kỷ 18, chúa Trịnh Sâm (1739 - 1782) cho trùng tu và mở mang chùa rộng rãi thêm và còn di tích như hiện nay.
Đến đời Tây Sơn, Thụy Nham hầu Phan Huy Ích (1751 - 1822) thường về quê nhà nghỉ ngơi an dưỡng hay ở ẩn tại chân núi Sài Sơn, cũng thơờng viếng chùa và đề thơ vịnh chùa.
Sài Sơn Xuân điếu
Phan duyên nhai bạn phỏng viên lư
Thừa hứng đăng cao nhãn giới thơ
Thái lão lam tình hàn đẳng thản
Bối am vân hiểu cổ tùng sơ
Hoa tùng chuyển điểu cầm tương tư.
Thạch tích thê hạ họa bất như.
Tứ cố giao nguyên xuân ý túc
Tiền thôn soa lạp bội nhân sư
Sơn trung độn tẩu lão triều tham
Xuân hạ huề cung nhiếp bích nham
Thế lộ phong đào kinh thiệp hậu.
Phương tri yên cảnh mãn Hồng am.
Tạm dịch:
Mùa xuân ngắm cảnh Sài Sơn
Nhân duyên lên núi ngắm thảo am
Thừa hứng lên cao tầm mắt rộng.
Khói lam thái lão đá phẳng lạnh
Am tranh trăng sáng xuyên thông cổ
Chim hót ngàn thông như tiếng đàn
Hoa lá trên non đẹp hơn tranh.
Nhìn khắp thảo nguyên ý xuân đầy
Trước mắt làng thôn,phu đang cầy
Già ẩn núi non chán cảnh triều
Nhàn nhã ngày xuân trèo núi biếc
Vượt bao sóng gió cảnh hãi hùng
Thông hiểu khói lam khắp am Hồng (1) .
Cuối năm Canh Tuất ( tháng 1-1791), sau khi đi sứ Trung Hoa về, Thụy Nham hầu xin về quê nghỉ dưỡng bệnh tại núi Sài Sơn đã sáng tác bài thơ :
Tạm dịch:
Sứ hồi đề sơn gia
Cố viên tùng trúc cố y y,
Sóc mạc sương bào khách thúy qui
Khuê khôn hòa thanh tề cố sắt
Đinh giai trì xí lạc khiến y
Phù sinh na đắc mi thơờng tụ
Chuyết hoạn hồn như điểu quyện phi.
Điện việt bất phương thành dưỡng lán
Túy yêu sơn nguyệt anh Sài phi.
(1) Am hồng: nơi Phan Huy Ích ẩn ở núi Sài Sơn.
Đề thơ nhà ở núi sau khi đi sứ trở về
Vườn xưa tùng trúc vẫn xanh xanh
Áo bào xứ Bắc mới về quê,
Không khí gia đình vui đầm ấm
Con trẻ ngoài sân quấn quít mừng.
Phù sinh sao được hươu thường họp
Đời quan buồn chán chim bay mỏi
Xuống chức vì lười chẳng hại chi
Rượu say ngắm trăng qua song cửa.
Năm Kỷ Dậu đời vua Quang Trung (năm 1789), đại hồng chung của chùa Thầy được đúc từ đời Lý bị tịch thu để đúc tiền (các đền chùa dưới Thời vua Quang Trung đều bị tịch thu, Phật tượng và pháp khí bằng đồng đều bị tịch thu). Đến khi vua Cảnh Thịnh lên ngôi (1793 - 1801) mới bỏ lệnh đó và các đền chùa đúc lại chuông tượng bằng đồng, thiện nam tín nữ bổn đạo của chùa Thầy cùng nhau quyên góp đúc lại chuông cho chùa, đại hồng chung được đúc xong vào mùa Hạ năm Giáp Dần (1794). Thụy Nham hầu biên soạn bài minh khắc lên đại hồng chung. Đại hồng chung này hiện còn ở chùa, từ miệng đến đỉnh cao 1,50m, chu vi miệng chuông rộmg 2m.
Trên đỉnh núi Sài Sơn có chùa Cao hay Đỉnh Sơn tự (chùa Đỉnh núi) cũng có đại hồng chung và cũng bị Tây Sơn tịch thu để đúc tiền, đến năm Bính Thìn (1796) bổn đạo của chùa Thầy mới đúc lại được chuông cho chùa này, nhưng kích thơớc nhỏ hơn xưa. Chuông cao từ miệng đến đỉnh là 0,80m, chu vi miệng chuông rộng chỉ có 1,40m.
Ông Phan Cẩm đậu Tứ trường khoa Giáp Ngọ (1774) biên soạn bài minh, trụ trì chùa Thầy là Thiền sư Hải Khoát viết chữ, người khắc chữ là Nguyễn Tài Trí.
Đến đời nhà Nguyễn (1802 - 1945), kinh đô không còn ở Thăng Long mà đặt tại Phú Xuân (Huế), vua và Hoàng tộc chỉ chú trọng trùng hưng những ngôi chùa cổ có từ Thời của các chúa Nguyễn và các vua nhà Nguyễn thuộc lãnh thổ Đàng Trong (từ Quảng Trị vào Nam, nhất là những ngôi “chùa Quan” tại kinh đô Phú Xuân (như Thiên Mụ, Thánh Duyên, Giác hoàng) tỉnh Quảng Nam (các chùa Tam Thai, Linh Ứng trên Ngũ Hành sơn), tỉnh Gia định (chùa Sắc tứ Từ Ân, chùa Quốc An Khải Tường), tỉnh Định Tường (chùa Sắc Tứ Linh Thứu). Do đó, Phật giáo ở lãnh thổ Đàng Ngoài Thời vua
Lê - chúa Trịnh, từ Quảng Trị trở ra Bắc bị suy thoái, chùa chiền ít được tu sửa.
Mãi đến năm Canh Tý, niên hiệu Minh Mạng thứ 21 (1840), năm vua được năm mươi tuổi, ở các tỉnh Hà Nội, Bắc Ninh và Hải Dương xảy ra bệnh dịch, dân chúng và gia súc (trâu bò,heo gà…) bị bệnh. Các quan ở địa phương tâu trình về triều đình Huế. Nhân đó vua đã cho mở Đại trai đàn ở chùa Thầy, tức chùa Phật Tích để chúc mừng tuổi thọ cho vua và cầu nguyện cho dân chúng miền Bắc được hết bệnh và bình an.
Ngày 18 tháng 6 năm Canh Tý, vua ra lệnh cho Bộ Lễ như sau:
Năm nay, gặp năm trẫm chánh thọ ngũ tuần, cầu trời được phước sống lâu, muốn mở khánh trạch để thần nhân gia bị cho đều khắp. Nay người và vật ở các hạt Hà Nội, Bắc Ninh và Hải Dương không yên, trẫm lo nghĩ đến dân sinh, tìm nhiều phương điều tế. Nghe danh lam núi Phật Tích ở Sơn Tây, Bắc kỳ, do thần tăng Từ Đạo Hạnh dựng lập rất linh ứng, chuẩn cho hai mươi sư ở các chùa ở kinh đô (Huế) khá thông kinh giới và mười người trong Hòa Thanh Thợ ra đó mở trai đàn tụng kinh làm phước trong ba thất, mỗi thất trai tăng một lần, chẩn tế một đàn, lấy ngày mùng chín tháng bảy khai kinh, đến ngày mười lăm, gặp tiết Vu Lan thì đêm ấy chẩn tế, rồi tiếp tục cử hành thất thứ hai để cho nhân lành trọn đủ, phước báu khắp quần sinh, người và vật được sức khỏe thịnh vượng, Thời tiết điều hòa, lúa thóc thốt tươi, để thỏa lòng trẫm vì dân cầu phước. Ý trẫm là vậy,vốn không phải vì nịnh Phật mà làm. Mọi lễ vật cùng nhân công,vật liệu do Tỉnh thần chi xuất công quỹ ra làm, không được đụng đến sức của dân.
Lại nghe chư tăng Bắc Kỳ phần nhiều chưa thuộc khoa giáo, có thể gọi các tăng nhân kiên trì giới luật ở các tỉnh lớn thuộc các hạt lân cận, độ năm mươi, ba mươi người tề tựu tại trai đàn ở chùa để nghe và xem khoa phạm nhiều lần, cùng nghe âm nhạc do Hòa Thanh Thợ diễn tấu, để sau này có thiện duyên hảo sự, đều phải phỏng theo đây mà làm cho đúng theo “Thiền giáo”.
Vua cũng xuống sắc ra lệnh cho Phó sứ Ty Thông chánh là Lâm Duy Nghĩa ra chùa Thầy để thi hành lệnh trên, lo hành lễ trai đàn trong ba tuần, nội dung như sau: “(. . .) Kể từ khi trẫm lên ngôi đến nay,kính sùng theo đạo Trời, mộ đức trăm thần, chỉ cầu phò hộ đất nước, giúp đỡ cho dân chúng được nhờ ơn thuận lợi lớn (đại thuận). Năm nay, gặp trẫm chánh thọ ngũ tuần, khánh trạch đều làm, thần nhân khắp nơi đều giúp. Nhân nghĩ, từ Quảng Trị trở ra Bắc, trong thần linh các hạt, hiển trí nhất là chùa núi Phật Tích đều được tôn xưng là rất linh ứng.
Nay truyền: Phó sứ Ty Thông Chánh, Sung biện Công vụ ở Nội các là Lâm Duy Nghĩa, hãy đến chùa núi Phật Tích, ở Thụy Khuê, nhân ngày mùng 9 tháng 7 là ngày trai đàn khai kinh mà lấy ngày ấy hành lễ.
Các viên Khâm phái trên đây, chiếu theo Bộ của mình sắm sửa nghi lễ đến tuân hành.Tất cả phải hết sức khấu đảo thần linh phò hộ cho trẫm thân thể khương kiên tốt lành, Thời Thời được phước để ban trải cho thứ dân. Lại cầu trong năm gió mưa được thuận hòa, trộm cướp chấm dứt, dân chúng yên lành để chung hưởng phước thái bình.
Tế cáo xong điều chuẩn cho dịch trạm đưa về kinh đô tựu chức. Khâm thở.
Vua Minh Mạng lại sai quản thị vệ Võ Văn Giải đem hương lụa cùng phẩm vật Trai đàn đến chùa Thầy (chùa núi Phật Tích) và hành lễ ở Trai Đàn đó.

II.Chùa Thầy Với Núi Sài Sơn
Chùa Thầy được xây dựng ở chân núi Sài Sơn. Núi Sài Sơn là quê hương của Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan, của dòng họ Phan Huy (Phan Huy Ích, Phan Huy Chú...). Chùa Thầy với núi Sài Sơn là một danh lam thắng cảnh vào bậc nhất ở Việt Nam, biết bao thi nhân nổi tiếng đến viếng và làm thơ vịnh cảnh chùa và núi.

Chùa Thầy
Chùa Thầy dựa lưng vào núi Sài Sơn, trước chùa là hồ Long Trì rất rộng, giữa hồ có thủy đình, ngày xưa dùng làm chỗ diễn trò múa rối nước trong các ngày hội chùa. Thiền sư Từ Đạo Hạnh là Tổ khai sơn chùa Thầy, cũng là Tổ sáng lập ra “trò múa rối nước”. Phía bên kia hồ, đối diện với chùa Thầy là chùa Long Đẩu.
Chùa Thầy cất theo kiểu chữ Tam gồm ba tòa nhà ngang nằm liền nhau trên một khu đất chữ nhật ngang hơn 40, sâu vào hơn 60m.
Phía trước chùa, hai bên tiền đường là hai chiếc cầu có lợp mái do trạng Bùng Phùng Khắc Khoan cho xây (1602). Cầu lót gạch Bát Tràng màu đỏ nung, hai bên có lan can, trên lợp ngói. Hai cầu này xây theo kiểu “Thượng gia hạ kiều” (trên nhà dưới cầu), gồm có ba nhịp, giống như ngôi nhà ba gian:
- Cầu Nhật Tiên ở bên trái chùa, nối liền chùa với đền Tam Phủ. Đền Tam Phủ dựng trên một đảo nhỏ ở phần hồ phía trái.
- Cầu Nguyệt Tiên phía bên phải chùa, nối liền chùa với đường đi lên chùa Cao ở trên đỉnh núi Sài Sơn.
Hồ Long Trì bao quanh phía trước và hai bên hông chùa.
Ở giữa hồ Long Trì, ngay phía trước chùa là ngôi “thủy đình” hình vuông với hai từng mái cong nhẹ nhàng, mỹ thuật.
Ngôi chùa chánh gọi là chùa Cả nằm dựa lưng vào núi, ba mặt gồm phía trước và hai bên hông chùa là hồ Long Trì (hay Long Chiểu).
Chùa Cả có ba tòa nhà chánh cất trên nền cao gần 2m xung quanh xây bằng đá xanh, ba tòa nhà này cách nhau bằng các sân có lót gạch Bát Tràng đỏ nung:
- Tiền đường là một tòa nhà ba gian hai chái rộng, bề ngang khoảng 20m, mái xuôi, bốn góc vươn cong lên nhẹ nhàng. Ngày xưa phía trên nóc và bốn góc ngôi tiền đường có thể có chạm trổ rồng hoặc trang trí mỹ thuật, nhưng ngày nay không còn.
- Trung điện cũng là tòa nhà ba gian hai chái rộng 20m, Thờ các Thiền sư Không Lộ, Giác Hải và Minh Không, là các bạn đồng môn của Thiền sư Đạo Hạnh.
- Thượng điện là một tòa nhà một gian hai chái rất rộng lớn, kiến trúc đơn giản nhưng vững chắc và mỹ thuật. Thượng điện được dựng trên một nền cao gần 2m, nên thấy Thượng điện cao lớn thêm. Bộ mái nhà đồ sộ, xuôi xuống bốn bên dốc thật đứng nên ở ngoài nhìn vào thấy điện này hơi thấp, nhưng vào phía bên trong, bốn cột lớn cao vút cùng với mười hai cột phụ, kết hợp với xà, hoành khớp mọng vững chắc, thấy ngôi Thượng điện cao và rộng. Mái Thượng điện lợp bằng ngói mũi hài to bản và dày. Vách thượng điện làm bằng gỗ, với nhiều mảng trang trí chạm hình rồng lân, mây...
Trong điện này, ngoài các tượng Phật, còn có ba pho tượng diễn tả ba kiếp của Thiền sư Từ Đạo Hạnh: ở chính giữa là tượng Thiền sư đã thành Phật, đội mão hoa sen, tay chắp trước ngực, mặc y vàng. Tượng đặt trên bệ đá quý mài láng, chạm hoa sen và chim thần (linh điểu đầu chim mình người) rồng uốn khúc, hoa văn với các hoa lá cách điệu.
Gian phía bên trái có khánh Thờ bằng gỗ, chạm trổ mỹ thuật bên trong có tượng Thiền sư Từ Đạo Hạnh bằng cây bạch đàn, chân tay có khớp cử động được. Tượng trong khánh ngồi, nhưng khi mở cửa khánh, tượng đứng lên như người thật sống động. Nhưng vào Thời Pháp thuộc, hệ thống dây để kéo tượng đứng lên hay ngồi xuống bị cắt đứt, nên nay tượng không cử động được như xưa.
Tượng thứ ba là tượng vua Lý Thần Tông: theo sách sử của Phật giáo và Đại Việt sử ký toàn thơ đều chép lại việc Thiền sư Từ Đạo Hạnh khi viên tịch đã thác sinh, đầu thai làm Hoàng Tử Lý Dương Hoán, sau lên ngôi vua trở thành vua Lý Thần Tông. Tượng vua đầu đội mão bình thiên, mặc áo long bào, chân mang hia, ngồi trên ngai vàng.
Trong chùa còn có tượng của cha và mẹ của Thiền sư Từ Đạo Hạnh (?) ngồi trên hai cái ngai, lưng dựa của ngai chạm trổ nhiều hình: đầu rồng, sừng tê, ngọc báu, phủ việt, hoa văn sóng nước. Trên ngai này có khắc niên đại là năm Thiệu Phong thứ 6 (1346) đời vua Trần Dụ Tông.
Hai bên chùa là hành lang dài Thờ mười tám vị La hán.
Phía sau Thượng điện là gác chuông và lầu trống. Trong gác chuông có treo đại hồng chung mới đúc vào niên hiệu Cảnh Thịnh (chuông xưa đúc từ đời Lý đã bị tịch thu để đúc tiền vào thời vua Quang Trung). Lầu trống có treo trống lớn, đường kính đến 1,50m.
Chùa Thầy có cặp câu đối đặc biệt, vừa kể sự tích Tổ sư Từ Đạo Hạnh khai sơn chùa, vừa tả cảnh đẹp của chùa và núi Sài Sơn.
Vi Tiên, vi Phật, vi quốc vương, sinh hóa tam thân lưu hiển tích quan
Hữu động, hữu hồ, hữu Thiên thị, giang sơn nhất đái biểu kỳ
Dịch nghĩa:
Là quốc vương, là Tiên, là Phật, sinh hóa ba kiếp lưu tích thật.
Có động, có hồ, có chợ trời, núi sông một dãy xứng kỳ quan.

Núi Sài Sơn (Núi Không Lộ)
Từ chùa Thầy, qua cầu Nguyệt Tiên phía bên mặt chùa, theo đường có kê đá thành bực lên núi Sài Sơn.
Núi Sài Sơn hay núi Thầy, hay núi Phật Tích, hay núi Thạch Thất, hay núi Không Lộ, là một ngọn núi đá vôi không cao lắm nhưng cây cối xanh tươi, bắt nguồn từ núi Tản Viên, một linh địa quí nhất của Việt Nam. Ngày xưa họ Từ đến lập am tu hành ở đỉnh núi Sài Sơn, nên có tên là Am Từ Công hay còn gọi là chùa Đỉnh núi (Đỉnh Sơn tự) hay chùa Cao, hay am Hương Hải. Phía trước chùa Cao ngày xưa có vườn trúc, nhưng nay không còn.
Sau chùa Cao là hang Thánh hóa, nơi Thiền sư Từ Đạo Hạnh “thoát xác”. Phía trước cửa hang, hai bên vách đá có khắc nhiều bài thơ của các danh nhân, thi sĩ xưa. Phía trong không tối lắm, có bàn Thờ Thần Núi (Sơn Thần), có khe suối nhỏ từ trên núi chảy xuống qua một đầu rồng “phun” vào hồ nước trong vắt. Giữa động là vách đá thẳng, leo lên cao hai mét thì tới cửa vào động nhỏ hẹp, đó là nơi Thiền sư Đạo Hạnh ngồi thiền viên tịch.
Nhà thơ Ninh Tốn có bài thơ “Đề Sài SơnTừ Chân nhân tịch, Động khẩu chi thạch bích (Thơ đề trên vách đá ở cửa động Sài Sơn, nơi chân nhân Từ Đạo Hạnh viên tịch).
Tiên đại tùng văn hữu chí nhân
Tự sơn trác tích dưỡng thiên chân
Nhân duyên tẩy tịnh tiền sinh lụy
Phú qúy trừ lưu hậu kiếp thân.
Tuệ minh bất ưng tham sắc giới
Từ tâm nguyên thị hứa sinh dân. ...
Nhiên cực lạc càn khôn đại,
Liên tọa nan năng hoán tư thân.
Dịch nghĩa:
Từ nghe đời trước có cao nhân
Cấm gậy núi này dưỡng thiên chân.
Nhân duyên rửa sạch nghiệp tiền thân
Giàu sang dành sẵn vua kiếp sau.
Huệ sáng nên không tham sắc giới
Tâm từ ban rãi khắp dân sinh.
Cực lạc không rộng như trời đất
Ngôi vua khó đổi với tòa sen.
Từ chùa Cao đi vòng ra phía sau, theo đường mòn bằng các bực đá, lên cao thêm vài chục thơớc là đến hang Cắc Cớ. Đường vào hang hẹp và tối, sâu vào phía trong thì động rộng ra. Nơi đây, trước kia có tìm thấy mấy bộ xương người và đồng tiền cổ. Đường vào hang men theo vách đá hẹp và tối, dài vài trăm mét, có nơi người đi ra và đi vào đôi khi phải níu sát nhau, vì vậy có tên là”Cắc Cớ”.
Trở ra khỏi hang Cắc Cớ, tiếp tục leo lên đỉnh núi, dọc hai bên đường có nhiều cây hoa sứ lâu năm, đến đền Thượng. Đền Thượng ngày nay chỉ là một ngôi miếu nhỏ. Sau miếu là hang Bụt Mọc, vì trong hang có nhiều tảng đá lô nhô giống như các tượng Phật nổi lên từ lòng núi.
Cách đền Thượng một quãng dường núi là Hang Gió vì hang trống ở hai đầu, lúc nào cũng có gió thổi lùa qua.
Phía trên chùa Cao có một khoảng đất bằng gọi là chợ trời, ngổn ngang nhiều tảng đá giống như bàn ghế, kệ bày hàng, chai, ly rượu... Nhà thơ Nguyễn Khuyến khi viếng núi Sài Sơn có bài thơ sau:
Hóa công xây đắp biết bao đời
Nọ cảnh Sài Sơn có chợ trời
Buổi sớm gió tuôn, trưa nắng giải,
Ban chiều mây họp, tối trăng chơi.
Bày hàng hoa quả tư mua sẵn.
Giải thẻ giang sơn bốn mặt ngồi
Bán lợi mua danh nào những kẻ
Chẳng lên mặc cả một đôi lời.
Ở chân núi phía Tây Sài Sơn có chùa Bối Am hay chùa Một Mái. Chùa có một mái, mái bên kia là vòm hang núi.
Phía ngoài chùa Bối Am có ngôi nhà ba gian hai chái, là nhà Thờ của dòng họ “Phan Huy” (Phan Huy Ích, Phan Huy Ôn, Phan Huy Thực, Phan Huy Chú...).
Nhà thơ Ninh Tốn (1743-?) viếng núi Sài Sơn có bài thơ “Đề Sài Sơn Bán ốc tự động” như sau:
Thiên tâm mạc thị sắc kỳ quan
Thu thập Thanh quan phó bích san
Điểu nhược giải kinh thời ngữ thoại
Phật năng nại tịch tự an nhàn,
Tiền trà thạch vị cung thanh thủy
Đố thở tùng thơờng dũng thúy lan
Thẳng trí tối kham yêu dật hứng
Tầm sơn dung dị khiển sơn nan.
Tạm dịch:
Đề thơ động chùa Một Mái
Lòng trời đâu hẹp với kỳ quan
Ánh sáng mùa thu gởi núi xanh.
Chim như hiểu kinh luôn ríu rít
Phật quen tịch tịnh tự an nhàn
Đun trà, đá núi cấp nước trong,
Chống nắng, tàng thông rợp lá xanh
Cảnh đẹp gợi bao nguồn cảm hứng
Núi tìm thì dễ, nhưng khó sai.
Chùa Thầy với núi Sài Sơn là danh lam thắng cảnh bực nhất nước Việt Nam, gợi bao nguồn cảm hứng cho thi nhân, thi sĩ Ninh Tốn còn sáng tác một số bài thơ khác vịnh đề cảnh chùa:
Sài Sơn Tự
Trùng phỏng danh sơn duyệt cố bi
Chân nhân di tích tổng hy kỳ,
Nhất chung hướng tự Long phù quá
Phiến thạch linh truyền Thuận Đức Phi
Động lý thần tiên nhàn ảo diệu.
Tự trung Hoàng đế hóa từ bi
Y nhiên vạn cổ huân cao tại,
Thụy vụ tường vân thỏa thúy vi.

Chùa Sài Sơn
Thăm lại Sài Sơn đọc cổ bia
Di tích chân nhân thảy hy kỳ.
Chuông ngân từ buổi Long Phù đến (1)
Đá quí, linh truyền Thuận Đức Thời (2).
Trong động thần tiên nhàn huyền ảo
Nơi chùa Hoàng đế hóa từ bi.
Muôn thuở khói hương bay nghi ngút
Mây đẹp sương lành che núi xanh.
(Phỏng theo Lâm Giang)
Tạm dịch:
Ký khứ Sài Sơn đồ trung tác
Phật tăng phiền não yêu ngô khứ
Sơn ái thi tài dục trục ngô
Bất tín thả ư tâm thượng nghiệm
Thủ sơn thơờng hữu Phật thường vô.
Từ giã Sài Sơn trên đường về sáng tác thơ
Phật ghét phiền não mời ta đi
Núi yêu tài thơ giữ ta lại,
Không tin nghiệm trước tự nơi tâm,
Núi này thơờng “Có”, Phật thường “Không” !

Tặng Sài Sơn Ký Tác
Nhân thuyết thở sơn đa thắng tri
Ngã thuyết thở sơn tự danh kỹ
Yêu khách trương triển cẩm Long Bình
Hoán khách dự thê cầm sổ chủy
Tích Thời tằng vị tích nhân dung
Kim niên hựu hướng kim nhân mị.
Tạc nhật chiêu yêu Thiện nhất công
Kim nhật tiếp dẫn khiêm như thị
Minh triêu túng hữu biệt nhân lai.
Ban ban tình thái hoàn vô dị
Nhược giao tụ đắc cổ kim nhân
Công đàm diệu xứ chỉ “Như thị”
Hội tình vô quái Từ chân nhân
Thâm tàng minh tọa u nham lý!

Sáng tác Thơ đùa tặng Núi Sài Sơn
Người bảo Sài Sơn nhiều cảnh đẹp
Ta bảo núi này như danh kỹ.
Mời khách giang rộng màn trương gấm
Gọi khách đến thăm chim thỏ thẻ
Ngày xưa từng đón bao cổ nhân,
Ngày nay khuyến dụ khách hiện tiền.
Hôm qua mời gọi Ngài Thiên Nhất (1)
Hôm nay tiếp đón chính Khiêm Như (2)
Sáng mai lại có khách khác đến
Tình thế như xưa không lạ gì.
Ví như tụ họp người kim cổ,
Cùng bàn diệu xứ chỉ “Như Thị”.
Hiểu rồi chớ lạ sư Đạo Hạnh (3) ,
Ẩn tu thiền định chốn hang sâu !
(1) Thiên Nhất là biệt hiệu của Phạm Giáp, bạn của Ninh Tốn, tánh tình phóng khoáng lãng bạc
(2) Khiêm Như là biệt hiệu của Ninh tốn
(3) Thiền sư Từ Đạo Hạnh, Tổ Khai sơn chùa Thầy

---o0o---

Chùa Láng (Chùa Chiêu Thiền)

chualang

Chùa Láng hay chùa Chiêu Thiền ở làng Yên Lãng, tên nôm là làng Láng, thuộc huyện Hoàn Long (sau là huyện Từ Liêm), kinh đô Thăng Long, nay thuộc quận Đống Đa, thủ đô Hà Nội, cách trung tâm thành phố 7km về hướng Tây.
I.Quá Trình Thành Lập Và Trùng Tu
Chùa Láng được xây dựng vào năm Chính Long Bảo Ứng thứ 7 (1169), vua Lý Anh Tông (1138 - 1175) lập chùa này để Thờ vua cha (Lý Thần Tông) và tiền thân của Ngài là thiền sư Từ Đạo Hạnh. Chùa được dựng ngay nơi sinh của Từ Đạo Hạnh (Từ Lộ), tức trên nền nhà cũ của Tăng quan Đô án Từ Vinh.
Sơ lược sự tích của vua Lý Thần Tông và tiền thân của Ngài là Thiền sư Từ Đạo Hạnh như sau: Thiền sư Từ Đạo Hạnh tên là Từ Lộ, có cha là Tăng quan Đô án Từ Vinh bị sư Đại Điên giết chết. Sư Từ Đạo Hạnh đi qua nước Kim Xỉ (có lẽ là Miến Điện) học được pháp thuật để về giết sư Đại Điên trả thù cho cha. Sau khi oán thù đã xong, sư Từ Đạo Hạnh tu theo đúng chánh pháp, đắc pháp thần thông, trụ trì chùa Thiên Phúc (sau được gọi là chùa Thầy ở trên núi Sài Sơn). Vì nghiệp quả của việc giết sư Đại Điên nên khi hóa chưa giải thoát được mà phải hóa sinh làm vua Lý Dương Hoán, sau lên ngôi, tức vua Lý Thần Tông. Sau khi vua Lý Thần Tông chết, con là Lý Anh Tông lập chùa Chiêu Thiền để Thờ cúng và kỷ niệm.
Bia ở chùa giải thích tên chùa chùa Chiêu Thiền như sau: “Vì có điềm tốt lành rõ ràng nên gọi là Chiêu, đây cũng là nơi sinh ra bực đại thánh (thiền sư) nên gọi là Thiền”.
Hiện chưa biết năm sinh của Thiền sư Từ Đạo Hạnh, nhưng ở chùa Láng và chùa Thầy hàng năm vẫn tổ chức hội chùa vào ngày mùng bảy tháng ba âm lịch theo câu ca dao còn truyền tụng:
Nhớ ngày mùng bảy tháng ba, Trở về hội Láng, trở ra hội Thầy.
Như vậy, có thể ngày hội đó là ngày sinh của Thiền sư Từ Đạo Hạnh, vì Thiền sư Đạo Hạnh hóa sinh vào tháng sáu năm Bính Thân (1116) đời vua Lý Nhân Tông, như trong sách Đại Việt sử ký toàn thơ đã ghi như sau:
“Bính Thân, Hội Tường-Đại Khánh năm thứ 7 (1116), mùa Hạ,tháng Sáu, nhà sư Từ Đạo Hạnh hóa thân trút xác ở chùa núi Thạch Thất, tên núi là Phật Tích sơn.
Từ Đạo Hạnh đến viếng núi ấy, thấy tảng đá trong hang núi có vết chân người. Đạo Hạnh lấy chân ướm vào vừa đúng với vết ấy, tụctruyền hang đó là chỗ Đạo Hạnh trút xác. Trước đó, phu nhân của Sùng Hiền hầu họ Đỗ có mang, đến đây trở dạ mãi không sinh được.Hầu nhớ lại lời Đạo Hạnh dặn khi trước, sai người cưỡi ngựa đi báo. Đạo Hạnh lập tức tắm rửa, thay áo vào hang núi mà qua đời. Sau đó, phu nhân sinh con trai, tức là Lý Dương Hoán. Người làng cho là việc lạ, để xác của Đạo Hạnh vào trong khám Thờ. Nay núi Phật Tích tức là chỗ ấy. Hàng năm mùa Xuân, cứ đến ngày mùng 7 tháng 3, con trai con gái hội họp ở chùa là hội vui chơi của cả miền ấy. Người đời saungoa truyền là ngày kỵ của nhà sư. (Xác của Đạo Hạnh đến khoảng năm Vĩnh Lạc nhà Minh (1407-1424) bị người Minh đốt cháy, người làng ấy lại đắp tượng để Thờ như cũ, hiện nay hãy còn)(1).
Từ đó đến nay, chùa Láng đã được trùng tu nhiều lần và trải qua nhiều thiền sư trụ trì, nhưng hiện nay không còn tài liệu nên không biết rõ. Nhờ vài bia đá xưa còn ở chùa, chúng ta biết được các lần trùng tu chùa như sau:
- Vào Thời Lê Trung hưng, chùa được trùng tu với quy mô lớn vàonăm Thịnh Đức thứ 4 (1656), đời vua Lê Thần Tông và chúa Trịnh Tráng. Có thể lần trùng tu này được sự hỗ trợ của Hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc. Bà là con của chúa Trịnh Tráng, được gả cho vua Lê Thần Tông. Sau này, khi vua Lê Thần Tông nhường ngôi cho vua Lê Chân Tông lên làm Thái thơợng hoàng, Hoàng thái hậu Ngọc Trúc qui y với Thiền sư Minh Hành-Tại Tại, đứng ra đại trùng tu lại chùa Bút Tháp (hay chùa Ninh Phúc) và chùa Phật Tích (hay chùa Vạn Phúc). Văn bia ghi sự tích trùng tu này do Diên Thọ bá Nguyễn Văn Trạc biên soạn và Nghị trai Dương Trí Trạch hiệu duyệt.
- Đến đời nhà Nguyễn, chùa lại được tu sửa vào Thời vua Tự Đức (1847 - 1883).
Hiện trạng và một số di tích cổ trong chùa ngày nay là di tích còn lại của các lần trùng tu trên chùa, hiện còn một số tượng xưa và đặc biệt là cái tráp đựng quyển sách bằng đồng (gồm tám tờ) có khắc chữ Phạn màu đỏ.
Cảnh thịnh suy của chùa Láng, cũng như bao biến đổi tang thơơng của cuộc đời và sự tích của Thiền sư Từ Đạo Hạnh làm chạnh lòng Hoàng giáp Trần Bá Lãm (1757 - 1815), khiến ông phải suy tư, nên ông đã có bài thơ vịnh chùa như sau:
Thế cuộc tang thương kỷ đô di
Hóa sinh tiền sự thị đa phi
Ngật kim đồng nghiệp đan thơ tại
Dục vấn căn nguyên vấn chủ trì!
Tạm dịch:
Thế cuộc tang thương mấy độ thay
Hóa sinh chuyện trước lắm thị phi.
Nay còn sách đồng nét chữ son
Muốn hỏi căn nguyên hỏi trụ trì!

II.Khung Cảnh Và Kiến Trúc Chùa Láng
Chùa Láng ngày xưa được xây dựng giữa cánh đồng của làng Yên Lãng, ven rìa phía Tây của kinh đô Thăng Long. Chùa kiến trúc mỹ thuật nhưng trang nghiêm cổ kính và rộng lớn, ẩn mình dưới những tàng cây si, cây muỗm, cành lá xanh tươi, phong cảnh thanh nhã và yên tĩnh, được coi là đệ nhất tùng lâm của vùng phíaTây kinh thành ngày xưa.
Trải qua hơn tám thế kỷ tang thơơng biến đổi của bao triều đại, từ nhà Lý qua nhà Trần, Lê đến nhà Nguyễn, đất nước Việt Nam qua bao cơn chinh chiến đổi thay, Phật giáo thịnh suy bao lần; cho đến nay, chùa Láng vẫn còn giữ được vẻ đẹp cổ kính, trang nghiêm nhưng không kém phần thơ mộng.
Kiến trúc của chùa phối hợp hài hòa với khung cảnh thiên nhiên rộng lớn nhưng tĩnh mịch, thanh tịnh và tươi đẹp, tạo nên cảnh đẹp cổ kính khó tả.
Cổng chùa Láng là cổng tam quan đơn giản nhưng mỹ thuật với bốn cột vuông thẳng đứng cao vút kết hợp cùng ba mái cong nhẹ nhàng thanh thoát. Mái giữa cao và rộng hơn hai mái hai bên, phảng phất kiến trúc của các cung vua phủ chúa. Cổng chùa kiểu cổng cung điện kết hợp với ba từng sân rộng, ở giữa là đường đi rộng và thẳng tắp lót bằng gạch Bát Tràng đỏ thẫm, hai bên có hành lang thấp trang trí hoa văn đơn giản như thảm trải lối đi vào chùa, hai bên hành lang có những hàng cây cổ thụ cao lớn, trồng thành từng hàng ngay thẳng và cách đều nhau, tàng cây với lá xanh xum xuê bao phủ che mát cả đường đi như những hàng lọng che mát lối vào chùa, càng mang thêm ảnh hưởng của lối kiến trúc cung điện vua chúa của chùa.
Qua hết sân ngoài là một cổng tam quan rộng lớn và cao như một tòa nhà ba gian trống (không có vách), với mái ngói gồm hai từng mái cong chồng lên nhau nhẹ nhàng, ngăn cách sân ngoài và sân giữa.
Sân thứ hai (sân giữa) cũng lót gạch Bát Tràng đỏ với hành lang thấp, cùng các hàng cổ thụ xanh mát, nhưng sân dài hơn. Từ cổng tam quan nhìn vào chùa thấy một đường lót gạch đỏ trải dài sâu hun hút, ở cuối sân này thấp thoáng cổng cuối cùng của chùa, chắn ngang lối đi là gian nhà bát giác xinh xắn rồi mới đến mặt tiền của chùa xa tít tận trong cùng.
Cuối sân thứ hai là cổng thứ ba với tường xây bằng gạch ngăn cách chùa với sân giữa. Cổng thứ ba này là hai cột vuông cao, hai bên cột là hai dãy tường thành với hai bên cổng phụ nhỏ. Phía trên đầu cổng xây hình vòng cung, trên nóc có mái cong nhỏ xinh xắn.
Qua khỏi cổng và tường thành này mới là sân chính trước chùa. Ở giữa sân chùa, ngày xưa có phương đình, tức tòa nhà hình vuông, để đặt kiệu và tượng Thánh (tượng Thiền sư Từ Đạo Hạnh) trong ngày hội chùa. Nhưng đến đời nhà Nguyễn, vào thế kỷ 19, phương đình bị hư mục, bổn đạo của chùa xây lại ngôi nhà bát giác với tám mái cong chồng lên thành hai từng gồm 16 mái cong nhẹ nhàng, mỹ thuật và thoáng đãng.
Phía sau nhà bát giác là phần chính của chùa. Chùa Láng gồm nhiều dãy nhà rộng lớn nhưng cổ kính, nóc chùa với hai từng mái chồng diêm, các cột chùa là những cột gỗ lim to, cao và vững chắc.
1. Tiền Đường
Tiền đường là tòa nhà năm gian rộng, Thờ các tượng Kim Cang và Hộ Pháp thật lớn, cao gần 5m, ngồi gần đụng nóc nhà. Tượng làm bằng rễ cây si bện lại, phía ngòai bọc bằng giấy bồi dầy và tô vẽ màu thật mỹ thuật và cổ kính.
2. Chánh Điện
Chánh điện cũng là tòa nhà năm gian rộng lớn, nối liền với tiền đường, Thờ nhiều tượng Phật Bồ Tát, Kim Cang to lớn và xưa.
3. Hậu Cung Hay Điện Thánh
Nối liền với chánh điện là hậu cung. Hậu cung chỉ là tòa nhà ba gian hình vuông, có hai cửa vào bằng cây, khép kín nơi Thờ Phật và Thánh (Tổ sư Từ Đạo Hạnh).Trong điện Thánh có Thờ các tượng Phật và tượng Thiền sư Từ Đạo Hạnh cùng tượng vua Lý Thần Tông (hóa thân của Từ Đạo Hạnh).
- Tượng Thiền sư Từ Đạo Hạnh làm bằng mây đan, ngoài bọc giấy bồi và phủ sơn dầy (phía trong tượng có thể yểm tâm, có ghi tên tuổi của sư).
- Tượng vua Lý Thần Tông bằng gỗ.
Phía sau điện thánh, ở hai bên có gác chuông và gác khánh. Hai gác này là hai gian nhà vuông nhỏ, có gác cây, nhà bên mặt là gác chuông, nhà bên trái là gác khánh.
Trên gác có khánh bằng đồng rất to, bề dài 1,50m, cao khoảng 1m, khánh được đúc vào giờ Thân, ngày 17 tháng 7 năm Mậu Ngọ (chưa biết rõ năm dương lịch).
4. Tăng Đường Và Nhà Khách
Phía sau điện thánh, cách một sân nhỏ là nhà khách và Tăng đường.
Hai bên có hành lang với những hình tượng về Thập điện Diêm Vương vẽ hình các cảnh tượng ở địa ngục để giáo hóa những người
gian ác.

III.Trì Chùa Láng
Hiện chùa không còn phổ hệ truyền Thờa nên không biết các thiền sư trụ trì Thời xưa truyền Thờa như thế nào.
Sau đó, có lẽ từ Thời Lê Trung hưng, chùa Láng trở thành một Ni viện cho đến nay. Vì vậy, Thời Pháp gọi chùa Láng là “PAGODE DES DAMES” (Chùa của các bà hay Ni viện). Các Ni sư trụ trì chùa kế tiếp qua các đời như sau:
- Đời thứ nhất : Ni sư Giám Từ ( Ngày kỵ : 5 - 5 )
- Đời thứ hai : Đàm Thụy ( Ngày kỵ : 17 - 2 )
- Đời thứ ba : Đàm Hiên ( Ngày kỵ : 24 - 1 )
- Đời thứ tư : Thanh Tịnh ( Ngày kỵ : 6 - 4 )
- Đời thứ năm : Đàm Du ( Ngày kỵ : 21 - 9 )
- Đời thứ sáu : Đàm Hiển ( Ngày kỵ : 8 - 2 )
- Đời thứ bảy : Đàm Lý ( Ngày kỵ : 12 - 5 )
- Đời thứ tám : Đàm Thinh ( Ngày kỵ : 13 - 2 )
- Đời thứ chín : Đàm Liên ( Ngày kỵ : 4 - 2 )
- Đời thứ mười : Đàm Bút ( Ngày kỵ: 4 - 12 )
- Đời thứ Trụ trì hiện nay (1990) là Ni sư Đàm Huyền.
Trong số các Ni sư trụ trì đầu tiên ở chùa Láng, có thể các vị này thuộc trong Hoàng gia vua Lê và Hoàng tộc chúa Trịnh. Nếu nghiên cứu kỹ các tài liệu xưa của chùa, chúng ta sẽ có thể tìm thêm được nhiều khám phá mới cho lịch sử Phật giáo Việt Nam nói riêng và lịch sử Việt Nam nói chung.

IV.Hội Chùa Láng
Chùa Láng (Chiêu Thiền) mở hội vào ngày mùng 7 tháng 3 âm lịch, cùng với ngày hội chùa Thầy ở núi Sài Sơn, nên ca dao có câu:
Nhớ ngày mùng bảy tháng ba, Trở về hội Láng, trở ra hội Thầy.
Ngày hội chùa Láng và hội chùa Thầy để kỷ niệm ngày sinh của Thiền sư Từ Đạo Hạnh; vì vậy trong ngày hội chùa Láng, bổn đạo của chùa ngày xưa thơờng tổ chức lễ hội diễn trò, nhắc lại sự tích Thiền sư Từ Đạo Hạnh, trong đó diễn lại cuộc đấu pháp thuật giữa Thiền sư Từ Đạo Hạnh và sư Đại Điên, một truyện cổ tích có vẻ huyền thoại nhưng Thực sự đã xảy ra vào đầu Thời nhà Lý.
Đến ngày hội (mùng Bảy tháng Ba), dân làng Láng (làng Yên Lãng) rước kiệu trên có tượng Thiền sư Từ Đạo Hạnh (tượng đan bằng mây, ngoài bồi giấy và phủ lớp sơn dày, bên trong tượng có thể được yểm tâm với tên tuổi và di vật của sư) đưa ra đặt ở phương đình (nay là nhà bát giác) ở trước sân chùa Láng.
Sau khi hành lễ xong, đoàn rước kiệu của thiền sư bắt đầu di chuyển từ chùa Láng đến chùa Hoa Lăng, nơi Thờ mẹ của Thiền sư Từ Đạo Hạnh để “Thánh” thăm mẹ. Người dân địa phương không dám gọi tên Thiền sư Từ Đạo Hạnh mà tôn gọi là “Thánh”.
Ra khỏi chùa Láng một đoạn đường đến cống Cót, đoàn rước phải “độ hà”, tức rước kiệu của Thánh băng qua sông Tô Lịch, rồi đoàn rước kiệu đi dọc theo bờ sông Tô Lịch giữa cảnh đồng bằng ruộng vườn xanh tươi.
Đoàn rước kiệu di chuyển đông đảo vui tươi với cờ quạt nhiều màu sắc, rợp đường tiếng trống, tiếng chuông vang rền, tiếng kèn tiếng đờn tiếng sáo réo rắt..., phía trước đoàn còn có cảnh “con đĩ đánh bồng”, thanh niên giả gái, vừa đi vừa múa, vừa đánh trống cơm...
Khi đoàn rước kiệu đi ngang chùa Duệ, nơi Thờ sư Đại Điên thì dừng lại, đốt pháo thăng thiên bắn vào chùa để nhắc lại sự tích Thiền sư Từ Đạo Hạnh dùng thần thông đánh chết sư Đại Điên trả thù cho cha (Sư Đại Điên giết chết Từ Vinh là cha của Từ Đạo Hạnh).
Chùa Duệ hay chùa Quảng Khai là nơi Thờ sư Đại Điên, được xây dựng ngay trên nền nhà ngày xưa của sư.
Chùa Duệ nằm gần bờ sông Tô Lịch, cạnh cánh đồng lúa màu mỡ của xóm Duệ, thôn Tiền, xã Dịch Vọng, huyện Từ Liêm (ngoại thành Hà Nội ngày nay). Từ con đường làng lót gạch giữa hai hàng cây cổ thụ với những tàng lá xanh tươi che phủ mát cả lối đi dẫn tới chùa. Trước chùa là cổng tam quan cổ kính, trên có gác ba gian, gian ở giữa treo đại hồng chung được đúc vào năm Gia Long thứ 14 (1815), trên thân chuông có khắc “Quảng Khai tự chung” (chuông chùa Quảng Khai).
Chánh điện chùa Duệ, ngoài các tượng Phật, Bồ Tát, Hộ pháp... còn có khánh Thờ tượng sư Đại Điên.
Tượng sư Đại Điên làm bằng gỗ, tạc theo tư thế ngồi thiền định, gương mặt rạng rỡ. Tượng được Thờ trong một khám sơn son thếp vàng, chạm hình “lưỡng long chầu nguyệt” và các hoa văn mỹ thuật.
Đoàn rước kiệu hành lễ ở chùa này độ nửa giờ rồi tiếp tục đi lên chùa Hoa Lăng. Đoàn rước hành lễ ở chùa này xong, lại rước kiệu trở về chùa Láng.
Về đến chùa Láng, kiệu được đặt ở phương đình ngay giữa sân chùa để Phật tử dâng hoa, cúng lễ và chiêm bái cho đến khi chấm dứt ngày hội, tượng được thỉnh vào “cung cấm” (nhà hậu Tổ hay điện Thánh).

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Contact Information

Phone
Array
Address Array
This entry was posted in . Bookmark the permalink.