Năm 1709, đại sư Chân Dung Tông Diễn tịch. Ông sanh năm 1640, nổi danh về gương hiếu hạnh được đại chúng ca ngợi qua danh hiệu Hòa Thượng Cua vì đã âm thầm hóa độ và giải nghiệp sát hại cua cho bà mẹ. Điển tích Hòa Thượng Cua hóa độ cho mẹ ý nghĩa sâu sắc hơn điển tích Mục Kiền Liên cứu mẹ khỏi địa ngục.
Ông được thiền sư Thủy Nguyệt (1636 – 1704), đã cầu học dòng Thiền Tào Động ở núi Phụng Hoàng, Trung Quốc) truyền tâm ấn. Thủy Nguyệt từng khen ngợi khi cho ông pháp hiệu Thông Giác: Ngươi là con cháu xứng đáng của tông Tào Động.
Ông đã cứu Phật giáo khỏi pháp nạn vào đời vua Lê Hy Tông (1676 – 1705). Nhà vua nghe lời các nho thần, ra lệnh cho các sư phải bỏ chùa vào rừng núi tu cho thanh tịnh, không được ở nơi thành thị. Đại sư Tông Diễn nghe tin này quá đau lòng vì các nhà sư là người chủ trì nghi thức quan hôn tang tế, thầy dạy học chữ Hán, thầy thuốc và người nuôi dạy trẻ mồ côi cho dân làng. Ông liền đến kinh đô, nghĩ kế xin dâng vua viên ngọc quý để được yết kiến vua. Vua không cho ông vào cung, ra lệnh nếu có ngọc, vua sẽ sai quan ra nhận. Sau ba tháng chờ đợi không được vua vời, ông viết một tờ biểu trình bày giáo lý đạo Phật đẹp đẽ như viên ngọc quý soi sáng mười phương, xóa tan mây mờ vô minh. Ông để tờ biểu vào một hộp rất đẹp dán kín lại, rồi trình với quan coi thành: nếu vua không cho sư gặp, xin cử một quan văn thanh liêm trung trực, trai giới ba ngày ra nhận ngọc quý. Vua ưng thuận. Trao hộp cho viên quan, ông căn dặn không được mở ra mà phải trình đến tay vua. Tại triều, vua sai mở hộp, chỉ thấy tờ biểu, vua sai đọc lên. Nghe được lời lẽ trong sáng, ý tứ thâm sâu, vua chợt tỉnh ngộ nhận ra quyết định sai lầm của mình. Vua cho vời ông vào triều, tham vấn đạo lý. Nhân đó vua Lê Hy Tông thâu hồi lệnh đã ban, cho phép các sư được trở về chùa cũ tiếp tục hoằng pháp độ sanh. Để chứng tỏ sự thành tâm sám hối, vua sai tạc tượng hình Phật Thích Ca đứng trên lưng nhà vua đang quỳ mọp xuống. Tượng này hiện còn để ở chùa Hòe Nhai, bên chánh điện. Trong cuốn Thiền Tông Bản Hạnh, thiền sư Chân Nguyên ca ngợi sự sáng suốt và tích cực sám hối này cửa vua, gọi Lê Hy Tông là Hoàng Giác Lê Gia (ông vua giác ngộ nhà Lê).
Khi về trụ trì ở chùa Đông Sơn (Hải Dương), ông ra sức hoằng hóa tông Tào Động. Học giả bốn phương nghe tiếng ông, tới tìm học rất đông. Phái Tào Động nhờ sự truyền bá của ông, trở thành thịnh hành ở Đàng Ngoài vào cuối thế kỷ 17 qua thế kỷ 18.