Năm 1849

Năm 1849, Đoàn Văn Huyên (1807 – 1856) khai lập giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương tại chùa Long Kiến ở núi Báu (Bửu Sơn), Long Xuyên. Ông sanh tại Sa Đéc, làm nghề nông thường đọc sách Phật từ lúc còn trẻ.

Năm 1849, nông dân mất mùa lại bị bệnh thời khí hoành hành ở miền Nam, ông lái xuồng đi nhiều nơi chữa bệnh cho nhiều người bằng nước lạnh và phù chú vừa khuyên bệnh nhân tu niệm. Do đó nhiều người theo ông, coi ông như vị Phật sống. Chính ông cũng tự nhận là Phật Thầy. Bấy giờ thời vua Tự Đức, tổng đốc An Giang nghi ông muốn nổi loạn, bắt ông tại vùng Long Kiến đưa về Châu Đốc xét xử về tội “gian đạo sĩ ”. Nhưng ông được tha tội, chỉ bị bắt buộc phải tu tại chùa Long Kiến. Tại đây có lẽ ông quy y với vị trú trì là HT Tiên Giác Hải Tịnh, được mang pháp danh Pháp Tạng, đạo hiệu Giác Linh, đời 38 phái Lâm Tế dòng Bổn Nguyên (như ghi trong mộ bia của ông bên hông Tây An Cổ Tự). Có tài liệu cho rằng ông còn cầu pháp với HT trú trì chùa Long Thạnh, Bà Hom. Trong năm 1849 tại chùa Long Kiến, ông lập giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương. Đệ tử của ông sau này xưng tụng ông là Phật Thầy Tây An và gọi chùa Long Kiến là Tây An Cổ Tự. Sau khi giáo chủ Huỳnh Phú Sổ khai sáng đạo Hòa Hảo, Tây An Cổ Tự trở thành chùa lớn thứ hai của đạo Hòa Hảo.

Năm 1975, Cộng Sản giành quyền quản lý, giao cho 2 cán bộ trông coi. Họ cấu kết với các cán bộ địa phương đem bán đi nhiều cổ vật quý giá được coi là bảo vật của chùa.

Bửu Sơn Kỳ Hương được coi là hình thức địa phương hóa Phật giáo trong môi trường nông dân chất phác, ít học của đồng bằng Nam Bộ. Đoàn Văn Huyên chủ trương một pháp môn dễ hiểu, dễ áp dụng: Tùy trình độ và hoàn cảnh mà hóa độ – Hành xử tứ ân là ơn tổ tiên cha mẹ, ơn đất nước, ơn Tam Bảo và ơn đồng bào nhân loại – Thiền Tịnh song tu, vừa tu Thiền vừa trì niệm danh hiệu A Di Đà để được vãng sanh – Phước Huệ song tu. Ông để lại cuốn Sấm Giảng bằng chữ Nôm, được Lê Mạnh Thái dịch ra quốc ngữ và sẽ cho xuất bản trong bộ Tổng Tập Văn Học Phật Giáo.

Tín đồ của Bửu Sơn Kỳ Hương có những người trở thành anh hùng dân tộc kháng chiến chống thực dân Pháp như Trương Công Định ((1820 – 1864), chiếm tỉnh Gò Công năm 1862), Nguyễn Trung Trực ((1837 – 1868), đốt tàu chiến Esperance của Pháp trên sông Nhật Tảo năm 1861), Trần Văn Thành (? – 1873) khởi nghĩa tại Láng Linh năm 1867).

Đệ tử của Phật Thầy Tây An cho rằng sau khi tịch, ông qua 4 lần chuyển kiếp thị hiện nơi Đức Phật Trùm ở núi Tà Lơn, đức Bổn Sư núi Tượng, Sư Vãi Bán Khoai ở Cao Miên và Đức Huỳnh Giáo Chủ ở làng Hòa Hảo. Đức Phật Trùm xuất hiện năm 1868, sử dụng lòng phái màu đỏ có dấu Bửu Sơn Kỳ Hương. Ông là người gốc Miên, truyền đạo sang cả đất Miên, bị thực dân Pháp bắt đi đầy một thời gian. Được thả về, ông tịch tại núi Tà Lơn năm 1875.

Đức Bổn Sư núi Tượng là Ngô Lợi (1831 – 1890), lập đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa năm 1872 tại xã An Lộc, An Giang, khai triển nguyên lý Hành Sử Tứ Ân và sử dụng lòng phái có dấu Bửu Sơn Kỳ Hương. Pháp tu của Tứ Ân Hiếu Nghĩa tổng hợp: trì niệm theo Thiền Tịnh – Xử sự theo Nho giáo – Luyện tinh, khí, thần theo Lão giáo – Ấn quyết, thần chú theo Mật giáo.

Trong 12 năm (1876 – 1888) thực dân Pháp với tay sai đắc lực là Tổng đốc Trần Bá Lộc đã đàn áp vô cùng dã man đạo này cả thảy 7 lần (đốt chùa, đốt nhà, bắt bớ tra tấn tín đồ…). Sau khi Ngô Lợi tịch, không có ai đủ khả năng nối pháp nên pháp môn này bị phân hóa trầm trọng.

Sư Vãi Bán Khoai được coi là một nhà sư dáng gầy, ăn mặc kiểu đàn bà, chèo thuyền bán khoai vừa đọc giảng “Sấm Giảng Người Đời ”, một bài kệ lục bát dài vừa có tính cách khuyến tu, vừa là sấm ký. Ông xuất hiện năm 1902, một thời gian ngắn sau thì mất dạng.

This entry was posted in . Bookmark the permalink.