Personal Information
Danh Tánh
|
TS Cầu Na Bạt Ma
|
|
Gender | ♂️ Male |
Hành Trạng
Additional Info
Cầu Na Bạt Ma: Dịch là Công Ðức Khải, dòng dõi Sát-đế-lợi. Gia thế nhiều đời làm vua cai trị nước Kế Tân. Tổ phụ tên là Ha-lợi Bạt-đà, dịch là Sư Tử Hiền, tánh tình rất thẳng thắng cương trực. Cha tên Tăng-già A-nan, dịch là Chúng Hỉ, nhơn ngài thường ẩn cư tại sông ngòi rừng núi. Bạt-ma năm mười bốn tuổi căn cơ đã thâm đạt xuất chúng. Ngài sống nhơn hậu, tôn sùng đạo đức làm thêm việc thiện. Người mẹ thường làm thịt loài dã thú cho ăn. Bạt-ma thưa: - Loài có sanh mạng đều ham sống, vậy đừng nên ăn chúng. Mẹ giận nói: - Nếu có tội mẹ sẽ chịu thế. Một hôm Bạt-ma chiên dầu sôi, lỡ làm đổ phỏng tay, bèn nói với mẹ. - Xin hãy chịu đau thế con. Mẹ nói: - Thân con bị đau, mẹ đâu thay thế được. Bạt-ma nói: - Việc khổ trước mắt còn không thể thay thế, huống chi khổ trong tam đồ. Mẹ bèn hối hận, trọn đời không còn sát sanh nữa. Ðến năm mười tám tuổi Ngài gặp một tướng sư bảo: - Năm ba mươi tuổi, ông đến một nước lớn ở phương Nam và được tôn xưng. Nếu không vui hưởng vinh hoa ở đời thì sẽ chứng đạo quả. Hai mươi tuổi ngài xuất gia thọ giới, thông suốt chín bộ kinh, hiểu tỏ bốn bộ A-hàm, tụng đọc kinh điển hơn trăm vạn lời. Lại thâm đạt luật học, diệu nhập yếu chỉ Thiền môn. Ðời bấy giờ gọi Ngài là Tam tạng Pháp sư. Năm ba mươi tuổi Ngài đến nước Kế Tân. Vua nước này băng hà không con nối dõi. Quần thần thương nghị với nhau: " Ngày Bạt-ma vốn dòng dõi đế vương, lại có tài trí sâu dày, đức cao vọng trọng. Vậy chúng ta hãy thỉnh Ngài hoàn tục lên ngôi vua" Hơn một trăm vị đại thần đến cầu thỉnh Ngài ba lần mà Ngài đều không ưng thuận. Ngài từ biệt thầy lìa đại chúng vào rừng sống đời tu hành đạm bạc, xa lánh thế tục, sau đó Ngài đi đến nước Sư Tử hoằng hóa chánh pháp. Người có kiến thức hiểu rõ đều cho Ngài đã chứng sơ quả. Oai nghi đoan chánh của ngài khiến cho loài vật cũng phát tâm tu hành. Kế đến Ngài qua nước Xà-ba1(Java - Indonesia). Ðêm trước hoàng thái hậu mơ thấy một vị đạo sĩ nương theo thuyền vào vương quốc. Hôm sau quả có ngài đến. Vương mẫu cung kính thánh thể xin thọ năm giới. Bà nói với vua: - Do nhân duyên nhiều đời mà ta được làm mẹ vua. Ta thọ giới rồi mà con không tin, sợ nhân đời sau sẽ không còn quả này. Vua đành phải nghe lời mẹ mà thọ giới, lâu ngày thì cũng tín phụng Phật pháp. Một hôm nước lân bang cất quân xâm chiếm biên ải. Quốc vương nói với Ngài: - Giặc dựa vào sức mạnh muốn xâm chiếm bờ cõi. Nếu cùng chúng nghinh chiến thì tổn hại sanh mạng rất nhiều. Nếu không chiến đấu thì hoạ mất nước sẽ đến. Nay chỉ quy mạng nơi tôn sư không biết Ngài có diệu kế gì? Bạt-ma nói: - Bọn giặc khởi binh chiếm đất, ắt rất hung hãn. Nhưng đại vương cứ khởi tâm từ bi, chớ có ý sát hại. Vua lãnh đại binh ra bày thế trận. Nổi trống giăng cờ giao chiến với địch, chúng thua bỏ chạy. Quốc vương bị thương nơi chân. Ngài đọc thần chú vào ly nước, đưa cho vua rửa thương. Hôm sau vua bình phục nên càng thâm tín và biết ơn Ngài. Quốc vương lại muốn xuất gia tu đạo, nên bảo với quần thần: - Trẫm muốn xuất gia làm Sa-môn, chư khanh hãy tìm vị minh quân khác. Quần thần đều thành khẩn van nài ba lần nên quốc vương không nỡ bỏ đi nhưng bảo họ: - Trẫm có ba ước nguyện, nếu các quan làm được thì trẫm sẽ ở lại trị nước: một là, người trong nước phải tin theo Phật pháp. Thứ hai, đoạn trừ tất cả sự giết hại. Ba là, tài sản trong nhà bố thí cho người nghèo. Quần thần vui vẻ theo lời vua dạy đều tin phụng Phật pháp, mọi người đều thọ ngũ giới. Vua xây tịnh xá cho ngài Bạt-ma. Khi đang đốc xuất việc xây dựng. Vua bị thương nơi ngón tay, Ngài tụng chú gia nguyện, không bao lâu thì vua bình phục. Ðạo hoá danh đức của Ngài vang danh khắp nơi. Các nước lân bang đều gởi sứ thần sang thỉnh Ngài hoằng dương chánh giáo. Bấy giờ tại kinh sư, có Sa-môn Tuệ Quán, Tuệ Thông v.v… nghe danh đức Ngài bèn viết sớ dâng lên triều đình. Năm Nguyên gia nguyên niên 2(424), họ lại tâu với Văn Ðế xin cầu thỉnh Ngài. Văn Ðế ra chiếu lịnh cho thứ sử Giao châu, sửa soạn tàu thuyền, cùng Sa-môn pháp Trường, Ðạo Sung, đi sang nước Xa-bà cầu thỉnh và viết thư cho Bạt-ma, vua Xà-bà là Bà-đa-già biết Ngài Bạt-ma muốn hoằng pháp rộng ra nên bằng lòng. Ngài không quản đường xá xa xôi tìm đến đất Tống. Ngài theo thuyền của thương nhơn Trúc Nan-đề đi đến một tiểu quốc, thuận theo gió thuyền đến Quảng châu. Ngài gởi thư cho Văn Ðế nói: - Gió hạnh nghiệp đã đến đây. Nay xin báo tin Văn đế biết ngài Bạt-ma đã đến Nam Hải, liền ra lệnh cho các thứ sử châu quận cung nghinh Ngài về kinh. Trên đường Ngài dừng lại ở Thuỷ Hưng. Vùng này có Hổ thị sơn, hình thế núi non lại cao vót đầy hiểm trở, Ngài thấy nơi đây phảng phất như núi Kỳ-xà-quật nên đổi tên là Linh Thứu. Ngoài sơn tự Ngài cho cất một thiền thất. Thất cách chùa vài dặm mà âm thanh ở chùa không thể vang đến đó. Nhưng khi có tiếng kiểng đánh Ngài đều nghe và trở về chùa, dầm mưa mà không ướt áo, bùn đất không dính chân. Chư tăng thảy đều tôn kính Ngài. Trong chùa có điện Bảo Nguyệt. Nơi phía Bắc của điện Ngài tự vẽ hình tôn giả La Vân và tượng Phật Ðịnh Quang và Nho đồng xõa tóc. Vẽ xong, mỗi buổi tối tướng đều phóng quang ánh sáng tỏ chiếu không dứt. Quan thái thú Thuỷ Hưng là Thái Mậu lại càng tôn trọng cung kính. Sau này thái thú Thái Mậu mất, Ngài tự thân đến gia quyến an ủi. Người nhà mộng thấy Mậu cùng chúng tăng thuyết pháp trong chùa, tất cả đều do thần lực của Ngài gia hộ. Vùng này vốn nhiều hổ báo, nhưng từ khi có Ngài về lưu trú, ngày đêm đi kinh hành, có khi gặp hổ sói, thì Ngài dùng tích trượng gõ lên đầu chúng nhè nhẹ chúng bèn bỏ đi hết. Từ đó lữ khách qua lại không còn e sợ, ai cũng được cảm hoá tin phụng Phật pháp. Ngài thường ở trong biệt thất nhập thiền, nhiều ngày liền không ra. Tăng chúng ở chùa sai một sa-di ra đó hầu hạ. Sa-di đến trông thấy một sư tử trắng đứng trên nóc am thất và trên hư không hoa sen bày đầy khắp. Chú tiểu kinh hoàng la lên, thì hiện cảnh đều biến mất. Những điều linh ứng đa phần là như thế. Sau đó Văn Ðế ban sắc lệnh đôn đốc Ngài về kinh đô. Tháng giêng năm Nguyên Gia thứ tám3(431) Ngài về đến Kiến Nghiệp. Vua Văn Ðế đích thân ra nghinh đón, ân cần vấn an. Vua hỏi: - Đệ tử thường muốn trì trai, không giết hại nhưng thường thân không theo ý. Pháp sư từ xa đến vậy Ngài dạy pháp gì? Bạt-ma đáp: - Phàm đạo ở nơi tâm chứ không ở nơi vật, pháp do mình chứ không do người. Vả lại sự tu trì của đại vương cùng chúng có sự khác biệt. Thứ dân thân kém danh liệt, lời nói không oai. Nếu họ không khắc kỷ khổ tu thì làm sao trở thành người hiền lương. Còn đối với hoàng thượng, vạn dân làm con. Một lời lành của Ngài nói ra thì dân chúng vui vẻ hân hoan. Nếu người ban bố chính sách thiện lương thì chư dân đều hoan hỷ. Còn như không hình phạt lương dân vô tội không bắt dân lao dịch, thì sẽ khiến cho mưa thuận gió hoà, thời tiết ôn hoà làm cho trăm thứ lúa gạo và cây cỏ được tốt đẹp tươi xanh. Trì trai như thế mới thật rộng lớn. Ðức không sát bao trùm như thế. Sao lại cho rằng trong nửa ngày không giết hại con vật nào thì gọi là trì trai. Văn Ðế vỗ ghế than rằng: - Phàm tục mê mờ xa cách đạo lý cho nên thường bảo rằng giáo lý của Ðạo là lời hư vọng. Còn hàng Sa-môn thì chấp vào chương cú câu kệ. Những lời của Pháp sư thật là khai ngộ sáng tâm, và hợp với lời lẽ trời người. Vua mời Ngài ở chùa Kỳ Hoàn, cúng dường tôn kính rất hậu. Các hàng vương tôn danh sĩ đều tôn sùng. Không lâu sau Ngài khai đàn giảng Pháp Hoa và kinh Thập Ðịa tại chùa. Người đến nghe pháp rất đông. Sau có ngài Tuệ Nghĩa cung thỉnh Ngài dịch bộ Bồ-tát Thiện Giới gồm hai mươi tám phẩm. Ðệ tử về sau dịch thêm hai phẩm nữa. Gồm ba mươi phẩm, phần chưa dịch bị mất phẩm tựa và phẩm giới, nên ngày nay thành hai bản, hoặc còn gọi là Bồ-tát giới địa. Ðầu năm Nguyên Gia thứ ba, thứ sử Từ châu là Vương Trung Ðức ở Bành Thành thỉnh Sa-môn Thiên-trúc là ngài Y-diệp Ba-la dịch kinh Tạp Tâm. Vì trở ngại nên ngài Y-diệp dịch đến phẩm trạch thì ngưng lại. Do đấy mà Vương Trung Ðức thỉnh Ngài dịch tiếp phẩm hậu, đầy đủ mười ba phẩm. Ngài lại dịch Tứ Phần Yết-ma, Ưu-bà-tắc ngũ giới, lược luận Ưu-bà-tắc nhị thập tứ giới. Tổng cộng hai mươi sáu quyển. Văn nghĩa rõ ràng không sai Phạm văn. Bấy giờ chư ni chùa Anh Phước như Tuệ Quả, Tịnh Âm v.v… đến bạch với Ngài: - Sáu năm trước có tám sư cô từ nước Sư Tử qua kinh sư bảo đất Tống chưa có ni giới. Sao có thể ni tăng cùng thọ giới, sợ rằng giới phẩm chưa trọn vẹn. Ngài bảo: - Giới pháp xuất pháp từ chư đại tăng. Nếu không theo bổn sự mà hành pháp yết-ma thì không đắc giới. Hãy xem lại duyên xuất gia của Bà Ðại Ái đạo thì rõ. Chư ni sợ giới phẩm chưa đầy đủ nên cầu thỉnh Ngài ban giới pháp. Bạt-ma đáp: - Lành thay, nếu muốn giới phẩm thêm sáng tỏ thì ta rất tùy hỷ giúp đỡ. Nhưng ni chúng đất Tây vức chưa đủ niên lạp, lại chưa đủ mười người, nên để học Tống ngữ và nhờ cư sĩ Tây vức thỉnh thêm chư ni nước ngoài về cho đủ mười người. Mùa hạ năm đó ở chùa Ðịnh Lâm Hạ, bấy giờ có tín thí đem hoa quả đến cúng dường. Những cánh hoa đặt cạnh tòa ngồi của Ngài thì còn tươi, làm cho đại chúng tôn sùng Thánh thể. Sau hạ Ngài trở về chùa Kỳ Hoàn. Ngày 28 tháng 9 năm đó dùng trai chưa xong, thì Ngài trở về điện các. Sau có người đệ tử đến thấy Ngài an nhiên thị tịch, thọ sáu mươi lăm tuổi. Trước khi nhập tịch, Ngài có viết ba mươi sáu bài kệ, tự bảo đã chứng nhị quả Tư-đà-hàm, rồi đưa thư cho đệ tử A-sa-la bảo: - Sau khi ta mất đưa thư này cho tăng chúng Thiên-trúc và chư tăng ở đây xem qua. Lúc nhập diệt, Ngài ngồi xếp bằng đoan toạ trên sàng thiền, gương mặt vẫn toả sáng hồng hào như nhập định. Hàng ngàn chư tăng ni và cư sĩ đến dự lễ an táng. Mọi người đều ngửi mùi hương lạ xông lên cùng thấy một con rồng dài khoảng một trượng từ nhục thân của Ngài bay lên hư không. Lúc này bốn bộ chúng đều vân tập. Trước giới đàn Nam Lâm y theo phong tục Thiên-trúc mà làm lễ trà-tỳ. Lúc ấy mây ngũ sắc chợt xuất hiện trên bầu trời xanh trong, khiến đạo tục ai nấy đều buồn thương. Nơi đó chúng tăng bèn lập bạch tháp thờ Xá-lợi của Ngài Cầu-na Bạt-ma. Chư ni muốn thọ giới đều thương khóc không ngớt. Lúc Ngài đến kinh sư, Tống Văn Ðế muốn theo Ngài thọ giới Bồ-tát. Vì phải lo chống giặc ngoại xâm, nên Tống Văn Ðế chưa kịp cầu thỉnh, mà Ngài đã viên tịch, khiến vua đau lòng nuối tiếc. Tống Văn Ðế ra lệnh cho chư tăng đọc bài kệ di chúc của Ngài. Kệ viết: Trước đảnh lễ tam bảo Chư thượng toạ tịnh giới Cõi trược nhiều xiểm khúc Hư nguỵ không tín thành Mê hoặc không biết rõ Khinh chê người đức hạnh Thế nên chư Hiền Thánh Hiện thân mà ẩn tích Ta Cầu-na Bạt-ma Vận mạng thời đã đến Chỗ đạt được công đức Nay nói lời chân thật Chẳng đem tâm tà vậy Hy vọng cầu danh lợi Khuyên những người giải đãi Tăng trưởng các pháp Phật Ðại pháp lực như thế Nhân giả hãy lắng nghe Xưa ở nơi rừng hoang Thấy được các tử thi Ruột gan trùng ăn hại Máu mủ chảy hôi hám Buộc tâm duyên nơi đó Biết thân vốn là vậy Thường thấy thân tướng này Xan tham không sợ lửa Vô số loài như thế Tu tập quán tử thi Xả bỏ điều nghe biết Y chỉ nơi rừng sâu Ngày đêm chuyên tinh tấn Chánh quán không hề quên Cảnh giới hiện trước mắt Cũng như xem mặt gương Người và ta đồng nhau Do đó tâm tịch tĩnh Thân nhẹ rất tịnh minh Trong sáng tâm an lạc Tăng trưởng đại hoan hỷ Tức không sanh chấp trước Biến thành cốt tiêu tướng Bạch cốt hiện trước mắt Huỷ hoại chân tay rụng Bạch cốt tất cũng diệt Vô cấu trí sáng ngời Ðiều phục pháp tướng tư (suy nghĩ) Bây giờ đắc như thế Thân an rất nhu nhuyến Phương tiện tu như thế Tiến đến chuyển tăng trưởng Vi trần niệm niệm diệt Hoại sắc chánh niệm pháp Ðó là thân cứu cánh Sao duyên khởi tham dục Biết nhân của thọ sanh Như cá tham mồi câu Nó thọ vô lượng khổ Niệm quán sát na diệt Biết rõ chỗ nương kia Do tâm vượn khỉ khởi Nghiệp cùng nghiệp quả báo Theo duyên niệm niệm diệt Tâm sở biết bao loại Gọi là pháp sai biệt Tức là niệm tư tuệ Từng bước tu trọn vẹn Quán bao loại pháp tướng Tâm này chuyển rõ ràng Ta ở trong ngọn lửa Thấy rõ bốn niệm sứ Luật hạnh khởi từ đó Nhiếp tâm duyên trụ lại Khổ như kiếm lửa nóng Vì do khát ái chuyển Ái tận đạt Niết-bàn Thấy rõ khắp ba cõi Lửa cháy thiêu tử thi Hình thể thật nhỏ nhoi Hỷ hết, lạc phương tiện Thân từ từ sung mãn Thắng diệu tướng chúng sanh Ðảnh, nhẫn cũng như vậy Là do tâm mình khởi Chân thật tánh phương tiện Từ từ lược cảnh giới Tịch diệt lạc tăng trưởng Ðắc pháp thế đệ nhất Một niệm duyên chân đế Từng bậc pháp nhẫn sanh Gọi là đạo vô lậu Vọng tưởng cùng trần cảnh Danh tự tất xa rời Cảnh giới nghĩa chân đế Trừ não được trong sáng Thành tựu quả tam-muội Rời cấu duyên trong sạch Không bổng cũng không trầm Tuệ tịnh như trăng sáng Lặng lẽ chánh an trụ Thuần nhất tướng tịch diệt Chẳng phải nơi tuyên thuyết Chỉ Phật năng chứng biết Na-ba A-tỳ-đàm Thuyết năm quả nhân duyên Thật nghĩa biết tu hành Chấp danh không thể thấy Chư luận bao loại khác Tu hành lý không hai Thiên chấp có thị phi Người đạt không tranh cãi Tu hành các diệu tướng Nay ta không tuyên thuyết Sợ người khởi vọng tưởng Cuồng hoặc mê thế gian Nơi kia tu lợi tướng Ta đã thuyết ít phần Nếu người có Tuệ sáng Biết là do duyên khởi Nơi nước Ma-la-bà4(摩臘婆國) Ma lạp bà, Phạm: Màlava. Cũng gọi Ma la bà quốc, Ma la la quốc. Tên 1 nước xưa ở Nam Ấn Độ, nằm về phía tây nước Ô Xà Diễn Na, mạn đông nam sông Mạc Hi Ðắc được sơ quả Thánh A-lan-nhã sơn tự Ðạo tích tu viễn ly Sau ở nước Sư Tử5Tích Lan Nơi thôn Kiếp-ba-lợi Tấn tu đắc nhị quả Gọi là Tư-đà-hàm Từ đó nhiều lưu nạn Chướng tu đạo ly dục Thấy ta tu viễn ly Biết là nơi không nhàn Ðều sanh tâm hy hữu Lợi dưỡng liên tiếp đến Ta thấy như lửa độc Tâm sanh thật nhàm chán Lánh loạn biển phù du Xà-bà cùng Lâm Ấp6Lâm Ấp là một vương quốc đã tồn tại từ khoảng năm 192 đến khoảng năm 605, tại vùng đất từ Quảng Bình đến Quảng Nam. Vương quốc này được coi là giai đoạn khởi đầu cho lịch sử Chăm Pa độc lập. Nghiệp hành gió đẩy đưa Tuỳ duyên nơi đất Tống Vì vậy trong các nước Tuỳ lực hưng Phật pháp Chẳng hỏi chẳng nên hỏi Hãy thật chân thật quán Nay thân này diệt tận Tịch như ngọn lửa tắt |
Contact Information
Phone
|
Array |
Address | Array |